Lời Blogger:
Chữ Quốc ngữ hiện nay còn nhiều khiếm khuyết, rườm rà, có chỗ chưa thống nhất. Cải tiến triệt để là không thể, phi thực tiễn.
Nhưng từng bước cải tiến một số phụ âm thì có thể (trong thời gian cải tiến - áp dụng cho các ấn phẩm mới, ấn phẩm cũ vẫn dùng bình thường.... Ví dụ: nhiều phụ âm ghép 2,3 chữ dẫn đến viết ra dài dòng, tốn giấy, tốn công: nh, ng, ngh, gh, kh... Có những rườm rà chỉ do mấy Cụ người Tây, chẳng liên quan đến "Ta", như nếu viết i, e sau g, ng, mấy ông Bồ, Pháp dễ đọc nhầm sang âm khác "giờ,...", bởi vậy sinh ra phụ âm ghép ba chữ ngh, gh (thêm chữ h làm dài thêm các từ).
-------------
Đôi dòng về những lần cải tiến chữ quốc ngữ Việt
Thoạt đầu các nhà nho Việt Nam rất phản đối thứ chữ của “bọn mắt xanh mũi lõ” này, nhưng rồi sau chính họ nhận thức được vai trò của chữ quốc ngữ trong nâng cao dân trí và canh tân đất nước...
Chữ quốc ngữ (QN) là thứ chữ ghi âm và theo nguyên tắc chính tả ngữ âm học (phiên âm âm tố; phát âm thế nào thì viết thế ấy), căn cứ trên mẫu tự Latin (abc) có thêm các dấu phụ. Cho đến nay, chữ viết ghi âm vẫn được coi là đơn giản, tiện lợi, dễ học dễ nhớ nhất. Trước đó, ở Việt Nam phổ biến là chữ Hán và chữ Nôm.
Chữ QN ra đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt, gắn liền với lịch sử mở đạo, với vai trò của các giáo sĩ Dòng Tên ở Đàng Trong, từ năm 1615. Giai đoạn sơ khởi của chữ này là khoảng 1617 - 1626. Các giáo sĩ được xem như tham gia công việc này chủ yếu truyền đạo ở vùng biển: Cửa Hàn (Đà Nẵng); Hội An - Thanh Chiêm (Quảng Nam) và Nước Mặn (Quy Nhơn, Bình Định). Ba vị được ghi nhận với công việc này, trong các tài liệu hiện có là Francisco de Pina, Cristoforo Bori và Alexandre de Rhodes. “Nhưng sự thật ai làm ra chữ QN vẫn còn là một câu hỏi…” (theo Hoàng Tuệ, 1993).
Chữ QN là một thứ chữ nhiều ưu điểm, nhưng cũng có không ít nhược điểm hoặc những vấn đề gây tranh cãi. Cụ thể là:
Chữ QN không căn cứ trên một tiếng địa phương cụ thể nào.
Chữ QN có nhiều cách ghép chữ cái không theo hệ thống, có trường hợp thừa; nhiều dấu phụ rườm rà.
Chữ QN có một số cách viết chưa thống nhất, viết thế nào cũng được.
Chữ QN thiếu một số ký tự phiên chuyển các từ ngữ nước ngoài…
Trong lịch sử, chữ QN đã nhiều lần cải cách, cải tiến:
Thứ nhất, những cải cách cải tiến trong giai đoạn sơ khởi và đến khi tương đối hoàn tất (khoảng thời gian gần hai thế kỷ, từ năm 1620 đến 1830), với nhiều tác giả khác nhau. Nếu so sánh chữ qua các chặng đường, có thể thấy hệ thống chữ này dần dần có nhiều đổi khác, thậm chí rất khác:
Thời kỳ sơ khởi (1620 - 1631): Các tài liệu viết tay của Joao Roiz (1621), Gaspar Luis (1621), Francisco de Pina (1623), Alexandre de Rhodes (1625), Francisco Buzomi (1626), Christoforo Borri (1631)…
Thời kỳ hình thành (1631 - 1648): Thư từ và tài liệu của Alexandre de Rhodes (1631, 1636, 1644, 1647), Gaspar de Amaral (1632, 1637), Onofre Borges (1645 - 1648)… Điều đáng chú ý là các tác phẩm Từ điển Việt – Bồ - La và Phép giảng tám ngày của Alexandre de Rhodes được biên soạn trong thời gian này (1630 - 1640).
Thời kỳ phát triển (hay “trưởng thành”) và hoàn tất (1651 - 1838): Từ các tài liệu của Igesico Văn Tín, Bento Thiện (1659) đến Từ điển Việt – La của Pigneau de Béhaine (1772), Từ điển Việt - La của Taberd (1772). Đặc biệt, đó là chữ trong khoảng 4.000 trang tài liệu viết tay của Philiphé Bỉnh (1796 - 1830). Chữ QN hiện nay chủ yếu căn cứ theo Từ điển Việt – La của Taberd.
Hai là, sau đó, từ nửa cuối thế kỷ 19 đến nay, chữ QN đã nhiều lần được đề xuất cải cách cải tiến điểm này điểm khác. Chẳng hạn, từ năm 1868 Le Grand de la Lyraye đề nghị dùng dz thay cho d, d thay cho đ. Aymonier (1886) đề nghị dùng k thay cho c và q, dùng c thay cho ch; bỏ h trong gh; thay s bằng sh, thay x bằng xh; dùng aa thay cho a, a thay cho ă, ee thay cho e, e thay cho ê, oo thay cho o, o thay cho ô… Năm 1902, có những ý kiến của “Tiểu ban chữ viết ghi âm” sau Hội nghị quốc tế khảo cứu về Viễn Đông lần thứ nhất họp tại Hà Nội. Vấn đề chữ QN được nêu ra vào năm 1906 trong Hội đồng Cải lương học chính của chính phủ Pháp ở Đông Dương. Năm 1910, Dubois trong cuốn Tiếng Việt và tiếng Pháp lại đề cập đến vấn đề cải cách chữ QN. Năm 1928, Trần Trọng Kim trong bài Sự sửa đổi chữ quốc ngữ phàn nàn “chữ QN ngày nay dễ quá”. Năm 1928, trên tờ Trung - Bắc tân văn, Nguyễn Văn Vĩnh hô hào “sửa đổi chữ QN”. Năm 1939, trên tạp chí Tao Đàn, tác giả Nguyễn Triệu Luật cho rằng cần cải cách chữ QN trên cơ sở phân tích ngữ âm tiếng Việt...
Sau Cách mạng Tháng tám, trên tạp chí Tiên – phong và trong cuốn Chữ của dân tộc, tác giả Ngô Quang Châu lại nêu vấn đề này. Năm 1950, trong cuốn Cữ và vần Việd khwa họk, tác giả Nguyễn Bạt Tụy nêu ra nhiều ý kiến cải cách. Tác giả Hồng Giao nêu vấn đề trên tạp chí Văn - Sử - Địa (1957). Trần Lực có ý kiến trên báo Nhân Dân năm 1960. Năm 1961, tác giả Hoàng Phê viết chuyên khảo Vấn đề chữ quốc ngữ và sau đó đến năm 1998 đã đăng hàng loạt bài xung quanh vấn đề chữ QN… Cũng không thể không nhắc đến những cố gắng xóa bỏ bất hợp lý trong chữ QN bằng cách viết "Đường kách mệnh”, “ngiên kứu”, “zữ vững”, “fục tùng”… (1925) của cụ Hồ Chí Minh. Gần đây nhất, có những thảo luận xung quanh vấn đề viết nguyên dạng hay phiên chuyển thế nào đối với các từ ngữ nước ngoài (bằng chữ QN) và vấn đề “i ngắn (i)” – “i dài (y)”…
Kết quả của những “cải cách cải tiến” đó là gì? Có một số thay đổi không cơ bản trong các quy định chính tả hiện nay so với trước kia. Tuy nhiên, về cơ bản thì chữ QN hiện nay vẫn chủ yếu căn cứ theo Từ điển Việt - La của Taberd (1772).
Trong lịch sử, chữ QN đã qua con đường khá dài trong truyền bá và sử dụng:
Trước hết phải nhớ rằng chữ QN thoạt kỳ thủy ra đời là nhằm mục đích để giúp các giáo sĩ ghi chép tiếng nói để truyền đạo. Sở dĩ nó cần, bởi vì như Alexandre de Rhodes thời ấy đã nhận xét: “Riêng tôi thú nhận rằng khi mới đến Đàng Trong nghe những người bản xứ nói chuyện với nhau, nhất là nữ giới, tôi có cảm tưởng như mình nghe chim hót líu lo và tôi đâm mất hết hy vọng vì nghĩ rằng không bao giờ có thể học được thứ tiếng đó”.
Sau khi xâm lược nước ta, chính quyền Pháp đã nhận thấy chữ QN dễ học hơn chữ Hán và chữ Nôm Việt (các hệ chữ có trước khi có chữ QN ở Việt Nam) rất nhiều, có thể giúp các quan cai trị và dân bản xứ dễ giao tiếp với nhau hơn, nên khuyến khích dạy và học chữ này. Năm 1878, có một nghị định về việc chuẩn bị điều kiện để dùng chữ này làm chữ viết chính thức ghi tiếng Việt. Năm 1910, có thông tri của thống sứ Bắc Kỳ về việc dùng chữ QN trong các công văn, giấy tờ hành chính và sổ sinh tử giá thú. Cần biết thêm rằng thoạt đầu các nhà nho Việt Nam rất phản đối thứ chữ của “bọn mắt xanh mũi lõ” này, nhưng rồi sau chính họ nhận thức được vai trò của chữ QN trong nâng cao dân trí và canh tân đất nước, bắt đầu hô hào học và phổ biến chữ QN trong phong trào Đông kinh nghĩa thục.
Sau Cách mạng tháng Tám, chữ QN đã trở thành chữ viết chính thức duy nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Tạ Văn Thông
GS Hoàng Phê đã đề nghị cải tiến chữ quốc ngữ như thế nào?
Năm 1961, Hoàng Phê viết chuyên khảo Vấn đề chữ quốc ngữ đề nghị cải tiến chữ quốc ngữ trong bước đầu. Và sau đó đến năm 1998, ông đã đăng hàng loạt bài xung quanh vấn đề chữ quốc ngữ.
GS Hoàng Phê (1919-2005) sinh tại xã Ðiện Quang, huyện Ðiện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thuở thiếu thời, ông học tại quê nhà rồi theo học ở Hội An, Huế, Sài Gòn. Sau cách mạng Tháng 8 năm 1945, ông tham gia kháng chiến chống Pháp ở Hà Nội, Việt Bắc.
Sau năm 1954, ông làm cán bộ nghiên cứu ở Viện Ngôn ngữ học, và tạp chí Ngôn ngữ học, giảng dạy tại Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Từ tháng 10/1959 đến năm 1968, ông là tổ trưởng tổ Ngôn ngữ học, Viện Văn học, thuộc Uỷ ban Khoa học và Kĩ thuật Nhà nước. Từ năm 1968, ông là một trong bốn cán bộ được giao trọng trách thành lập Viện Ngôn ngữ học. Kể từ đó cho đến lúc nghỉ hưu năm 1997, ông là cán bộ nghiên cứu, nghiên cứu viên cao cấp Viện Ngôn ngữ học.
Ông còn là Phó Tổng biên tập đầu tiên của Tạp chí Ngôn ngữ và đã có nhiều đóng góp trong việc xây dựng và phát triển Tạp chí. Ông cũng là Chủ tịch đầu tiên của Hội Ngôn ngữ học Việt Nam.
Sau khi nghỉ hưu, ông đứng ra thành lập Trung tâm từ điển học, giữ cương vị Giám đốc, Chủ tịch Ban điều hành Trung tâm và tham gia công tác ở Trung tâm cho đến tận những ngày cuối cùng.
Năm 1980, ngay từ đợt phong học hàm đầu tiên của nước ta, ông đã được phong học hàm Phó Giáo sư. Năm 1984, ông được phong học hàm Giáo sư...
Năm 1961, GS Hoàng Phê viết chuyên khảo Vấn đề chữ quốc ngữ và sau đó đến năm 1998 đã đăng hàng loạt bài xung quanh vấn đề chữ quốc ngữ.
Tại chuyên khảo nói trên, ông đã đề cập tới vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ từ khi xuất hiện tới thời điểm đó, xét về nhiều mặt khác nhau là: Thay đổi các con chữ và sửa đổi các vần không hợp lí; Sửa bỏ các dấu phụ không giản tiện; Viết liền và bỏ gạch nối; Thêm một số vần mới để tiện việc phiên âm các tiếng nước ngoài.
Theo ông, "cải tiến chữ quốc ngữ là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, vì cải tiến chữ quốc ngữ sẽ giúp rất nhiều cho việc phổ cập giáo dục, phổ cập văn hoá. Chữ quốc ngữ cải tiến sẽ trở thành giản tiện hơn và dễ học hơn. Điều đó sẽ tiết kiệm một phần không nhỏ công sức của nhân dân ta trong việc học chữ.
Cải tiến chữ quốc ngữ sẽ có tác dụng tốt đối với việc phát triển văn hoá, phát triển khoa học. Chữ quốc ngữ cải tiến và được bổ sung thêm một số vần mới cần thiết sẽ là một công cụ càng đắc lực hơn trong việc phổ biến và phát triển khoa học...".
Ông cho rằng "cải tiến chữ quốc ngữ từ lâu là một yêu cầu chung của nhân dân ta trong cả nước. Việc cải tiến chữ quốc ngữ một cách hợp lí, thích đáng, nhất định sẽ được đông đảo nhân dân ta từ Nam chí Bắc hoan nghênh.
Ngoài ra, cải tiến chữ quốc ngữ sẽ có những ích lợi khác, tuy phụ nhưng cũng không phải là nhỏ. Chữ quốc ngữ cải tiến sẽ đơn giản hơn, do đó hàng năm sẽ tiết kiệm được một khoản khá lớn về giấy in và về công ấn loát. Chữ quốc ngữ cải tiến sẽ hợp lí hơn, do đó việc học tiếng Việt phần nào sẽ dễ dàng hơn đối với các bạn ta ở các nước ngoài (quan hệ quốc tế của ta càng phát triển thì số người nước ngoài muốn học tiếng Việt cũng ngày càng tăng)"...
Cuối cùng, để cụ thể hoá một số ý kiến về nguyên tắc đã trình bày, ông nêu tóm tắt mấy điểm đề nghị cải tiến chữ quốc ngữ trong bước đầu:
1) Bỏ H vô lí trong GH và NGH.
2) Dùng F thay PH; D thay Đ; Z thay GI.
3) Nhất luật viết phụ âm k bằng K trong mọi trường hợp, thay cho C (và nghiên cứu thay cả cho Q).
4) Nhất luật viết nguyên âm i bằng I trong mọi trường hợp: i (học), iêu (thương), iết (kiến), kì (lạ), mĩ (thuật). v.v. Chỉ dùng Y để viết bán nguyên âm i trong ay và ây.
5) Thêm W để viết bán nguyên âm u trong uy:uy, uya, uynh sẽ viết WI, WIA, WINH, và qui sẽ viết KWI (còn cui sẽ viết KUI).
Thêm W là để có thể bỏ vần bất hợp lí UY; đồng thời cũng để chuẩn bị để dần dần, trong bước sau, dùng W viết bán nguyên âm U đứng trước nguyên âm, thay cho các con chữ O và U: oa, oe, uê, ươ, uy viết WA, WE, WÊ, WƠ, WI.
6) Thực hiện viết liền những trường hợp rõ ràng là một từ (xãhội, káchmạng, chiếnsĩ, thiđua, chuẩnbị, fấnkhởi, vuivẻ, v.v.).
Nói chung, các danh từ riêng cũng viết liền, trường hợp là tên người thì viết rời tên và họ (Việtnam, Hànội, Nguyễn Du, Trần Hưngđạo).
7) Thêm:
- Những vần như PA, PE, v.v. (viết phụ âm p đứng đầu âm tiết).
- Những vần như XTA, XMA, v.v. (thay cho STA, SMA, v.v.), và những vần như GLA, PLA, BRA, KRA, v.v. (viết hai phụ âm ghép liền nhau).
Hoàng Phê cũng nhấn mạnh "Lẽ tất nhiên, đây chỉ mới là một vài ý kiến sơ lược, hơn nữa, cũng chỉ mới là những ý kiến cá nhân; nhưng chúng tôi mong rằng với sự tham gia ý kiến của các bạn quan tâm đến vấn đề, rồi đây chúng ta sẽ thật sự xây dựng được một bản đề án cải tiến chữ quốc ngữ hợp lí trong điều kiện hiện nay. Chúng tôi tin rằng đó là điều mong mỏi chung của chúng ta".