(sưu tầm từ các bản dịch)
Bài thơ "Tây Sơn hành" của Trần Danh Án
Bia đề danh tiến sĩ khoa thi năm 1731, có ghi danh Trần Danh Lâm (cha của Trần Danh Án) đỗ tiến sĩ và Trần Danh Ninh (anh ruột Trần Danh Lâm) đỗ hoàng giáp.
Sơ qua về tác giả:
Trần Danh Án (陳名案, 1754–1794), tự Liễu Am (了庵), hiệu Tản Ông (散翁); là nhà thơ và là quan viên nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là tác giả của "Nam phong giải trào", một công trình sưu tập ca dao được nhiều nhà nghiên cứu xem là xưa nhất.
Trần Danh Án là người làng Bảo Triện, huyện Gia Bình, trấn Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng, có nhiều người làm quan lớn trong triều. Ông nội là Tiến sĩ Trần Phụ Dực, làm quan đến chức Tư huấn Quốc Tử Giám, tham gia soạn "Đại Việt sử ký tục biên". Bác ruột ông là Tiến sĩ Trần Danh Ninh và cha ông là Tiến sĩ Trần Danh Lâm (cùng đỗ Tiến sĩ năm 1731), cùng làm quan đồng triều và đều trải đến chức Thượng thư.
Thời niên thiếu, Trần Danh Án có tiếng thông minh học giỏi. Năm cuối Cảnh Hưng triều vua Lê Hiển Tông (1786), ông thi Hương đỗ Giải nguyên. Năm Chiêu Thống thứ nhất (1787), ông thi đỗ Hoàng giáp khoa Đinh Mùi (khoa thi cuối cùng của triều Hậu Lê).
Vài ý sơ qua về bài thơ "Tây Sơn hành"
Bài thơ "Tây Sơn hành" của Trần Danh Án viết về cuộc tình giữa Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ và Công chúa Lê Ngọc Hân. Ngày nay và cả xưa kia, nhiều người ca ngợi đây là mối tình đẹp đẽ. Công chúa Ngọc Hân cũng được cho là tác gia bài thơ "Ai Tư vãn" viết về nỗi nhớ nhung vua Quang Trung - người chồng quá cố của mình, có những câu như:
Bài thơ "Tây Sơn hành" thì ngược lại, tác giả viết với lời lẽ sâu cay, miêu tả đêm tân hôn giữa Nguyên Huệ và Ngọc Hân như một vụ "hiếp dâm", hình ảnh Nguyễn Huệ rất xấu xí. Bài thơ phản ảnh xu hướng bảo thủ của nhiều sĩ phu Bắc Hà khi đó, phụng sự và trung thành tuyệt đối với vua Lê, Tây Sơn bị coi như "giặc". Bài thơ với nhiều câu viết khá tục, như kiểu thơ/truyện 18+ thời nay:
(bản dịch của TS. Trần Trọng Dương)
"...Hâm mộ ngắm chàng ta rể quýNàng Ngọc Hân gạt lệ xuôi tayNgười đâu trọ trẹ thế nàyDa thời nhăn nhúm, dáng rày ngông nghênhKhăn với áo xông xênh diêm dúaGiữa hai chân không khố lão HànBên trong một vật hiên ngangNgũ chi sừng sững như đang thượng toàKhi lúc lắc tựa là nhảy múaChẳng nói năng sấn sổ xông raCọp gầm hùng hổ chu choaNghìn cân sà xuống một toà thiên nhiênXé toạc váy giở miền ngà ngọcVật này ôi đã xọc thân hoaXăm xoi ngúc ngoắc vào raOanh khùng khục tiếng, hoa dà dà sonÔi giày xéo hoa don vật vãNhuỵ non tơ rách tã còn đâu...
Hơi hùm bốc khói trên đầu
Thịt rung răng nghiến như dầu bôi thân"
(bản dịch của Trần Quang Đức)
"...Người hâm mộ, xuýt xoa như một
Thiếp trông chàng buông tuột đôi tay
Áo loè loẹt, giọng lạ đời
Nếp da nhăn nhúm, khổ người ngông nghênh
Cao trên thóp vấn khăn Trương Giác
Giữa hai chân không khố Hàn sinh
Bên trong một vật tày đình
Chân tay gộp lại, chềnh ềnh ngũ chi
Khi lặng nhác ông sư nhập định
Lúc động như anh lính múa may
Lầm lì chẳng nói chẳng cười
Gầm vang một tiếng rặt hơi beo hùm
Nghìn cân nặng xổm chồm ngực sữa
Xé váy là tốc giở đùi non
Thọc người, thứ ấy rành đòn
Đâm vào thẳng ngắc cửa son ấm mềm
Tót trên cành, oanh rần búp nõn
Cái oanh cuồng lọ biết thương hoa
Màng hoa lụa xé xác xơ
Lò chì khói toả bụi tơ bời bời..."
BÀI THƠ TÂY SƠN HÀNH VÀ CÁC BẢN DỊCH
西山行
海宇承平二百年,
深宮春色鎖嬋娟。
嫣紅錦褥人眼獨,
淺翠花裀蝶夢纏。
不是神仙無對偶,
可堪芳景忽流連。紗窗寂寞梅酣雪,
邃篽離披柳困煙。
花事闌珊春已矣,
殘英落絮總堪憐。
鼕鼕何處城邊鼓,
羯塵漫塞長安路。
亟夏方旋振葉風,
深春忽點催花雨。
鬚眉無膽控危城,
釵扇將身抵驕虜。
天王姊婦上公妃,
不比尋常花弄主。
尊榮貴寵對天潢,
奠聘奩儀優特數。
雲水騶從翠綺羅,
風流儐相紛紳冑。
扇夫轎子儘非常,
都人見者呼為父。
人羡新郎如一口,
妾見新郎墜雙手。
衣裳熳爛語侏离,
骨相崚嶒皮皺古。
頂上高堆張角巾,
腿間不著韓信褲。
其中一物望巍然,
直與四肢峙為五。
靜似高僧兀坐忘,
動如弁子歌身舞。
不言不笑不溫存,
大吼一聲烈如虎。
千鈞飛蹲據酥胸,
怒裂羅裙披雪股。
此物誰知解刺人,
頡頏插入溫柔戶。
嬌花枝上狂鶯揉,
狂鶯不為嬌花護。
花膜重重裂繒聲,
鉛爐片片飛煙縷。
牙咬肉顫汗如油,
亂搗胡抽做不住。
須臾裙帶落新紅,
暗點春籌翻幾度。
妾身兩孔似連環,
瞬息通成一大圈。
捲襦點閱忽驚訝,
頏摩不值半文錢。
黑暗既非前度白,
縈紆又改舊時圓。
呼鬟拿甕尿一尿,
尿水之聲如飛泉。
飛泉瀲灩去不返,
陽風打落桃花片。
桃花嬌怯不勝風,
風斂花魂猶覺倦。
盈盈柳骨瘦三分,
褶褶湘羅寬一半。
底事雖然不殺人,
暮雨朝雲安熟爛。
自從奇苦得奇歡,
歡後卻忘舊苦艱。
不患漁翁揮棹澀,
溶溶桃浪漲平灘。
左掬右摸探花髓,
鶯不停梭蹀不攔。
玉癢香搔失害羞,
上摟下扭圓團團。
風情蕩漾花心急,
恐放東君頃刻間。
蠻人老實多高興,
不會輕挑只會鑽。
浮世青雲如過客,
一生幾度托春眠。
衾裯樂處無夷夏,
痴徇空名誤玉顏。
不見錦機脂粉隊,
西兵去後幾人還。
誰將此為語姊妹,
嫁郎及早嫁西山。
TÂY SƠN HÀNH
Hải vũ thừa bình nhị bách niên,
Thâm cung xuân sắc toả thuyền quyên.
Yên hồng cẩm nhục nhân nhãn độc,
Thiển thuý hoa nhân điệp mộng triền.
Bất thị thần tiên vô đối ngẫu,
Khả kham phương cảnh hốt lưu liên.
Sa song tịch mịch mai hàm tuyết,
Thuý ngự ly phi liễu khốn yên.
Hoa sự lan san xuân dĩ hĩ,
Tàn anh lạc nhứ tổng kham liên.
Đông đông hà xứ thành biên cổ,
Yết trần mạn tắc Trường An lộ.
Cức hạ phương toàn chấn diệp phong,
Thâm xuân hốt điểm thôi hoa vũ.
Tu my vô đảm khống nguy thành,
Thoa phiến tương thân để kiêu lỗ.
Thiên vương tỉ phụ thượng công phi,
Bất tỉ tầm thường hoa lộng chủ.
Tôn vinh quý sủng đối thiên hoàng,
Điện sính liêm nghi ưu đặc số.
Vân thuỷ sô tùng thuý ỷ la,
Phong lưu tấn tướng phân thân trụ.
Phiến phu kiệu tử tận phi thường,
Đô nhân kiến giả hô vi phụ.
Nhân tiện tân lang như nhất khẩu,
Thiếp kiến tân lang truỵ song thủ.
Y thường mạn lạn ngữ thù ly,
Cốt tướng lăng tằng bì trứu cổ.
Đính thượng cao đôi Trương Giác cân,
Thoái gian bất trước Hàn Tín khố.
Kỳ trung nhất vật vọng nguy nhiên,
Trực dữ tứ chi trì vi ngũ.
Tĩnh tự cao tăng ngột toạ vong,
Động như biền tử ca thân vũ.
Bất ngôn bất tiếu bất ôn tồn,
Đại hống nhất thanh liệt như hổ.
Thiên quân phi tồn cứ tô hung,
Nộ liệt la quần phi tuyết cổ.
Thử vật thuỳ tri giải thích nhân,
Hiệt hàng sáp nhập ôn nhu hộ.
Kiều hoa chi thượng cuồng oanh nhu,
Cuồng oanh bất vi kiều hoa hộ.
Hoa mạc trùng trùng liệt tăng thanh,
Diên lô phiến phiến phi yên lũ.
Nha giảo nhục thiên hãn như du,
Loạn đảo hồ trừu tố bất trụ.
Tu du quần đới lạc tân hồng,
Ám điểm xuân trù phiên kỷ độ.
Thiếp thân lưỡng khổng tự liên hoàn,
Thuấn tức thông thành nhất đại khuyên.
Quyển nhu điểm duyệt hốt kinh nhạ,
Hàng ma bất trị bán văn tiền.
Hắc ám ký phi tiền độ bạch,
Oanh vu hựu cải cựu thời viên.
Hô hoàn nã úng niệu nhất niệu,
Niệu thuỷ chi thanh như phi tuyền.
Phi tuyền liễm diễm khứ bất phản,
Dương phong đả lạc đào hoa phiến.
Đào hoa kiều khiếp bất thắng phong,
Phong liễm hoa hồn do giác quyện.
Doanh doanh liễu cốt sấu tam phân,
Triệp triệp tương la khoan nhất bán.
Để sự tuy nhiên bất sát nhân,
Mộ vũ triều vân an thục lạn.
Tự tòng kì khổ đắc kì hoan,
Hoan hậu khước vong cựu khổ gian.
Bất hoạn ngư ông huy trạo sáp,
Dung dung đào lãng trướng bình than.
Tả cúc hữu mô thám hoa tuỷ,
Oanh bất đình thoa điệp bất lan.
Ngọc dạng hương tao thất hại tu,
Thượng lâu hạ nữu viên đoàn đoàn.
Phong tình đãng dạng hoa tâm cấp,
Khủng phóng đông quân khoảnh khắc gian.
Man nhân lão thực đa cao hứng,
Bất hội khinh thiểu chỉ hội toàn.
Phù thế thanh vân như quá khách,
Nhất sinh kỉ độ thác xuân miên.
Khâm trù lạc xứ vô di hạ,
Si tuẫn không danh ngộ ngọc nhan.
Bất kiến cẩm cơ chi phấn đội,
Tây binh khứ hậu kỷ nhân hoàn.
Thuỳ tương thử vị ngữ tỉ muội,
Giá lang cập tảo giá Tây Sơn.
Dịch nghĩa
Bờ cõi thanh bình đã hai trăm năm
Ở nơi thâm cung xuân sắc, người đẹp bị khoá chặt
Cô đơn nằm trên nệm gấm hồng tươi
Say giấc mộng bướm dưới lớp áo hoa biêng biếc
Không phải là thần tiên không có người sánh đôi
Mà cám cảnh thơ ngây bỗng vương lòng lưu luyến
Song the hiu quạnh, bông mai đượm tuyết
Vườn uyển sâu thẳm, liễu ám khói sương
Mùa hoa đi qua, xuân cũng đã hết
Cánh hoa tàn, tơ mành buông, thật là đáng thương
Tùng Tùng! Đâu đó vang lên tiếng trống ven thành
Lũ rợ Kiệt đến, bụi mù khắp Tràng An
Chưa cuối hè mà đã có gió lay lá
Đương xuân chín mà bỗng lác đác giọt mưa bứt hoa.
Đấng mày râu không có gan giữ được cung thành
Để bực quần thoa phải gán thân cho giặc mạnh
Con gái Thiên vương phải làm phi cho Thượng Công
Nào phải bậc chúa hoa tầm thường.
Để tỏ lòng tôn vinh đối với hoàng tộc
Sính lễ cùng nghi thức hết sức đặc biệt
Ngựa xe như mây nước, tuỳ tòng mặc toàn gấm vóc
Đám phù rể phong lưu, áo mũ xênh xang.
Bọn phu quạt, phu khiêng kiệu đều lạ lùng
Người kinh đô thấy đều gọi là “cha”
Ai cũng hâm mộ chú rể
Còn cô dâu trông thấy chàng rể thì buông đôi tay.
Quần áo thì sặc sỡ diêm dúa, giọng nói thì trọ trẹ
Dáng dấp ngang tàng, da dẻ nhăn nhúm
Trên đầu chất cao cái khăn của Trương Giác
Giữa chân không mặc cái quần của Hàn Tín
Ở bên trong, một vật trông rất nguy nga
Cùng với tứ chi, sừng sững thành năm ngọn
Lúc tĩnh lặng, giống như cao tăng nhập toạ
Lúc động đậy, tựa như võ biền vừa hát vừa múa
Chẳng nói chẳng cười chẳng từ tốn
Gầm lớn một tiếng, mãnh liệt như hổ
Nghìn cân sà xuống, chồm hỗm chiếm bộ ngực như bơ
Tức tối xé rách chiếc váy là đang che cặp đùi tựa tuyết
Vật này ai cũng biết là có thể đâm người
Ngúc ngoắc rồi chọc vào cánh cửa êm ấm
Bông hoa kiều diễm trên cành bị oanh khùng giày vò
Con oanh khùng không hề giữ gìn bông hoa kiều diễm
Lớp lớp màng hoa, tiếng xé vải
Mảnh mảnh lò chì bốc lên những ngọn khói
Răng nghiến, xác thịt rung, mồ hôi như dầu
Nện bừa, rút quấy, làm không dừng
Phút chốc, giọt hồng trinh rớt trên dải váy
Âm thầm mấy độ xuân qua
Trên thân thiếp hai lỗ tựa vòng khâu
Trong nháy mắt thông thống thành một hốc lớn
Vén áo lót kiểm tra bỗng kinh ngạc
Bị sờ bóp không đáng giá nửa xu
Thâm tím, không còn màu trắng xưa kia
Méo mó, khác rồi khối tròn thưở trước
Gọi a hoàn bưng chậu nước đi tiểu một cái
Tiếng nước tiểu như dòng thác tuôn
Dòng thác sóng sánh một đi không trở lại
Ngọn gió thổi rụng cánh hoa đào
Hoa đào kiều diễm, khiếp sợ, không chịu nổi gió
Gió ngớt, hồn hoa còn thấy mệt lả
Vóc liễu gày đi ba phần
Áo lụa gấp rộng một nửa
Việc này tuy không đến nỗi chết người
Nhưng cứ sớm mây chiều mưa sao lại không nát bét chứ
Từ khi chịu cái khổ lạ lùng lại được cái sướng lạ lùng
Sau khi sướng lại quên hết nỗi gian khổ ngày xưa
Chẳng lo ông chài khua chèo bị rít
Sóng đào bát ngát dâng ngập bờ cát phẳng
Vốc bên trái, sờ bên phải, thăm dò nhị hoa
Con oanh chẳng ngừng luồn, con bướm chẳng ngăn cản
Ngọc ngứa, hương gãi, không còn thẹn thùng
Trên ôm, dưới siết, cuộn lại tròn vo
Cuộc phong tình tràn ngập, lòng hoa bướm háo hức
Chỉ sợ rời “chúa hoa” trong khoảnh khắc.
Kẻ man di thật thà, rất nhiều khi lên cơn hứng
Chỉ biết đâm dùi, chứ không biết nhẹ nhàng ve vuốt
Cảnh đời mây nổi, tựa như khách qua đường
Cả đời được mấy lúc hưởng trọn giấc xuân
Thú chăn gối không phân biệt người Kinh, người rợ
Si ngây chuốc lấy danh hão, người ngọc lỡ lầm
Không thấy đám phấn son ở Cẩm Cơ sao
Sau khi quân Tây Sơn đi, có mấy thằng quay lại?
Ai nấy hãy đem việc này nói rõ với chị em:
Lấy chồng thì cứ sớm lấy bọn Tây Sơn ấy.
Lời tựa: “Thời, Nguyễn Chỉnh dẫn Tây Sơn Nguyễn Huệ binh lai kinh thành, Cảnh Hưng hoàng đế dĩ Ngọc Hân công chúa hạ giá Nguyễn Huệ, cố hữu thử tác” 時阮整引西山阮惠兵來京城,景興皇帝以玉欣公主下嫁阮惠,故有此作 (Bấy giờ, Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn quân Tây Sơn Nguyễn Huệ tới kinh thành, hoàng đế Cảnh Hưng gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ, cho nên có bài thơ này).
Bài thơ do nhà nghiên cứu Trần Quang Đức sưu tầm, phiên âm và dịch từ các cuốn Tản Ông di cảo 散翁遺稿, Thù thế danh thư 酬世名書 và Danh nhân văn tập 名人文集.
Bản dịch thơ của TS. Trần Trọng Dương
Cõi thanh bình hai trăm năm lẻ
Chốn thâm cung khoá trẻ đương tơ
Gấm tươi phô nét hững hờ
Áo hoa biêng biếc, bơ thờ giấc xuân
Khách thần tiên chưa lần sánh mộng
Lòng thơ ngây chợt động tơ vương
Song mai tuyết đọng chán chường
Vườn hoa thăm thẳm khói sương liễu bồ
Hoa đã rụng xuân hồ cũng hết
Xác còn buông mấy nét tơ sương
Thoắt thôi trống động biên cương
Bao nhiêu rợ mọi ngập đường Tràng An
Buổi cuối mùa gió man lay lá
Đương xuân hồng mưa rã nhị hoa
Mày râu trốn hết đâu mà?
Để cho má phấn phải ra gán mình
Thân công chúa thình lình thiếp giặc
Thân ấy đâu phải bậc tầm thường
Hoàng cung quốc sắc thiên hương
Thì thôi sắm lễ tiện đường rước đi
Xe như nước ngựa phi giăng gấm
Phù rể trông cũng thậm xênh xang
Lạ lùng tôi tớ khiêng sang
Lê dân Kẻ Chợ bàng hoàng xuýt xoa
Hâm mộ ngắm chàng ta rể quý
Nàng Ngọc Hân gạt lệ xuôi tay
Người đâu trọ trẹ thế này
Da thời nhăn nhúm, dáng rày ngông nghênh
Khăn với áo xông xênh diêm dúa
Giữa hai chân không khố lão Hàn
Bên trong một vật hiên ngang
Ngũ chi sừng sững như đang thượng toà
Khi lúc lắc tựa là nhảy múa
Chẳng nói năng sấn sổ xông ra
Cọp gầm hùng hổ chu choa
Nghìn cân sà xuống một toà thiên nhiên
Xé toạc váy giở miền ngà ngọc
Vật này ôi đã xọc thân hoa
Xăm xoi ngúc ngoắc vào ra
Oanh khùng khục tiếng, hoa dà dà son
Ôi giày xéo hoa don vật vã
Nhuỵ non tơ rách tã còn đâu
Hơi hùm bốc khói trên đầu
Thịt rung răng nghiến như dầu bôi thân
Chọc bừa đâm quấy tần vần
Giọt hồng cứ giỏ mấy lần nếp voan
Âm thầm bấy, mầu xoan vuột mất
Nhuỵ thuở nào e ấp xinh xinh
Thoắt thôi hoang hoác thân mình
Nhìn xem xiêm áo thất kinh rụng rời
Thân vàng ngọc đáng thời nửa cắc
Màu trinh nguyên đã mất vẻ xưa
Ngực non méo mó dật dờ
Buồn cơn đổ xuống một bờ thác tuôn
Thác đã tuôn cũng khôn níu lại
Cánh hoa đào gió tãi nào vun
E rằng gió giật chăng dừng
Hồn hoa mệt bã vô chừng bấy hoa
Thân liễu yếu ngót ba phần đủ
Xiêm y thay, thít chửa vừa thân
Mây mưa đã giãi phong trần
Tuy chăng mất mạng, cũng dần nát tan
Càng đau lạ lại càng sướng lạ
Sướng này thôi cũng hả đau kia
Chèo khua chẳng ngại gẫy chìa
Sóng đào bát ngát dâng kìa bãi xa
Đôi trái cấm xuýt xoa kia nọ
Oanh chăng ngừng, bướm tỏ nguồn yêu
Ngọc ngà ngứa ngáy hương phiêu
Trên ôm dưới siết còn đâu thẹn thùng
Cuộc phong tình bướm hoa háo hức
Chẳng nỡ rời một lúc một giây
Vũ phu hứng động dâng đầy
Vuốt ve chẳng đoái, cuốc cầy quen chân
Cảnh mây nổi một thân làm khách
Khách qua đường chớ trách mộng xuân
Gối chăn đâu cũng xoay vần
Danh suông để hão, trong ngần vấy nhơ
Đám phấn son Cẩm Cơ chửa đủ
Gã Tây Sơn liệu có quay về
Việc này nói tỏ cho nghe:
Lấy chồng cứ lấy chẳng nề quân Tây!
Bản dịch thơ của Trần Quang Đức
Nước thanh bình hai trăm năm cũ
Chốn thâm cung xuân khoá trăng rằm
Lẻ loi chăn gấm mền hồng
Một tà áo thuý mơ mòng bướm hoa
Âu cũng khách quần thoa dan díu
Cảnh xinh tươi chợt níu lòng thơ
Song the mai tuyết ngẩn ngơ
Vườn thăm thẳm lối, liễu mờ mịt sương
Hoa rệu rạc, màu xuân đã tếch
Cánh phôi phai, dạ khách xót xa
Thùng thùng trống giục ải xa
Nghẽn đường rợ mọi, bụi loà Tràng An
Mới chớm hạ, gió toan bứt lá
Hẵng còn xuân, mưa đã xúi cành
Mày râu mất vía giữ thành
Để cho má phấn gán mình giặc ngông.
Con Thiên tử, Thượng Công phi thiếp
Lọ chúa hoa đeo kiếp tầm thường
Tôn sùng dòng dõi đế vương
Mang theo sính lễ dọn đường vu quy
Xanh gấm vóc, ngựa xe mây nước
Thắm cân đai, đội rước phong lưu
Lạ lùng phu kiệu, đứa hầu
Con dân Kẻ Chợ thấy đều gọi Cha
Người hâm mộ, xuýt xoa như một
Thiếp trông chàng buông tuột đôi tay
Áo loè loẹt, giọng lạ đời
Nếp da nhăn nhúm, khổ người ngông nghênh
Cao trên thóp vấn khăn Trương Giác
Giữa hai chân không khố Hàn sinh
Bên trong một vật tày đình
Chân tay gộp lại, chềnh ềnh ngũ chi
Khi lặng nhác ông sư nhập định
Lúc động như anh lính múa may
Lầm lì chẳng nói chẳng cười
Gầm vang một tiếng rặt hơi beo hùm
Nghìn cân nặng xổm chồm ngực sữa
Xé váy là tốc giở đùi non
Thọc người, thứ ấy rành đòn
Đâm vào thẳng ngắc cửa son ấm mềm
Tót trên cành, oanh rần búp nõn
Cái oanh cuồng lọ biết thương hoa
Màng hoa lụa xé xác xơ
Lò chì khói toả bụi tơ bời bời
Răng nghiến thịt, mồ hôi như mỡ
Dập xằng xiên, hầu dễ đã xong
Váy xiêm chốc điểm giọt hồng
Phút xuân lặng đếm lậu rồng mấy phen
Hai lỗ thiếp như vòng vấn vít
Thoắt thông thành một hốc rất to
Hãi trông xiêm áo giày vò
Nhuốc nhơ chẳng đáng vất cho nửa hào
Nay đen xạm còn đâu trinh bạch
Trước tròn vo giờ đã héo hon
Gọi hầu bưng chậu mang lên
Tiểu ra như thể suối tuôn ào ào
Gió bức xối cánh đào lả tả
Đào tơ ghê cơn gió dữ dằn
Gió gom hồn vía nhọc nhằn
Mảnh mai vóc liễu ba phân hao gày
Xống nhàu nhĩ, dão tày một nửa
Việc phòng trung dẫu chửa chết người
Mây mưa sớm tối thuộc bài
Cơn đau kỳ lạ hoá vui lạ kỳ
Cuộc vui dứt, quên đi nỗi cực
Chẳng còn lo, chài nhọc mái chèo
Bãi bằng dồn dập sóng đào
Trái nâng phải bóp, lần vào nhị hoa
Bướm mặc oanh, đưa thoi không dứt
Ngọc ngứa hương, đâu biết thẹn thùng
Trên ôm dưới ấp một vòng
Miên man tình gió, nóng lòng dạ hoa
Sợ chúa xuân rời ra khoảnh khắc
Kẻ man di cũng thực hứng tình
Dùi đâm nào biết nhẹ nhàng
Phù sinh mây khách qua đường mà thôi
Giấc xuân ấy, cả đời mấy độ
Thú gối chăn bất kể Kinh – Man
Danh suông lỡ phận hồng nhan
Trông phường hoa điếm phấn son nhục nhằn
Lính Tây đi, mấy thằng trở lại
Bớ ai ơi nhắn với chị em
Lấy chồng, sớm lấy Tây Sơn!