Lăng Kinh Dương Vương tại thôn Ái Lữ, ngoài đê sông Đuống
Chữ Đại tự trên lầu 2: 祖 始 邦 南 Nam Bang Thủy Tổ
Chữ Đại tự lầu 1, trên ban thờ: 祖 忘 莫 國 愛 Ái Quốc Mộ Vong Tổ.
Kinh Dương Vương là ai ?
Kinh Dương Vương (涇陽王 2919 TCN - 2792 TCN) là vị vua trong truyền thuyết, vua của nước Xính Quỷ (赤鬼) - một liên minh quốc gia cổ đại của cư dân Bách Việt (truyền thuyết). Xích (赤) nghĩa là màu đỏ; từ Quỷ (鬼) có nghĩa là ma quỷ. Xích Quỷ là tên một ngôi sao có sắc đỏ rực rỡ nhất trong Nhị thập bát tú trên bầu trời.
Khi thi công cầu Kinh Dương Vương gần lăng, nhiều người hỏi Kinh Dương Vương là ai? Tôi trả lời ngắn gọn: là ông nội Vua Hùng Vương thứ nhất.
Nhân vật Kinh Dương Vương được đề cập trong “Truyện họ Hồng Bàng”, sách “Lĩnh Nam chích quái” tác giả Trần Thế Pháp (thế kỷ XIV) - là tác phẩm văn học dân gian đầu tiên của Việt Nam, viết bằng chữ Hán văn xuôi, còn lại từ thời Lý, Trần.
Đại Việt sử ký toàn thư, tác giả Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sỹ Liên... (1272 - 1697) đã đem một số tình tiết trong tiểu thuyết truyền kỳ Liễu Nghị truyện (柳毅傳) do Lý Triều Uy sáng tác vào đời Đường ghép với các huyền thoại khác như Lạc Long Quân – Âu Cơ, và coi đó như nguồn gốc khởi đầu cho sự xuất hiện của Hùng Vương – triều đại mà người Việt ngày nay coi như lịch sử đích thực của mình.
Đồng quan điểm với một số nhà nghiên cứu, tôi cho rằng Kinh Dương Vương chỉ là nhân vật huyền thoại, không có thật.
Sơ đồ hệ phả Kinh Dương Vương, Hùng Vương theo sách Lĩnh Nam chích quái

Sơ đồ hệ phả Kinh Dương Vương - NĐV lập theo sách Lĩnh Nam chích quái
Lăng Kinh Dương Vương ở đâu ?
Lăng Kinh Dương Vương ở ngoài đê Sông Đuống, thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Tôi đến lần đầu là vào năm 2017 khi đi cùng nhóm Urban Sketchers Ha Noi – ký họa Về miền Kinh Bắc. Sau đó là mấy năm (2020 – 2022) thi công cầu Kinh Dương Vương ngay cạnh lăng, và gần đây nhất là ngày 20.10.2024. Trong quãng thời gian đó, lăng đã thay đổi từng ngày khi được tỉnh Bắc Ninh đầu tư tôn tạo, mở rộng, xây thêm...
Bia "涇 陽 𤣩陵 Kinh Dương Vương lăng" lập năm Minh Mạng 21 (1840)
Lăng Kinh Dương Vương cùng với Đền thờ Kinh Dương Vương cách đó vài trăm mét là cụm công trình tâm linh thờ Kinh Dương Vương tại thôn Ái Lữ, xã Đại Đồng Thành, Thuận Thành, Bắc Ninh.
Đồng quan điểm với nhà sử học Dương Trung Quốc: Lăng Kinh Dương Vương chỉ là "mộ gió" (mộ tượng trưng) người dân lập ra để thờ vọng.
Một số hình ảnh lăng Kinh Dương Vương tại thôn Ái Lữ






Bia 涇 陽 𤣩陵 Kinh Dương Vương lăng lập năm Minh Mạng 21 (1840)

Cầu Kinh Dương Vương - nhìn từ trụ biểu trước sân lăng

Lăng Kinh Dương Vương nhìn từ cầu Kinh Dương Vương
Theo PGS.TS Trần Trọng Dương trong bài viết “Kinh Dương Vương ông là ai?” đăng trên báo “Tia sáng” ngày 06.09.2013 (lược trích bài viết của Trần Trong Dương):
“Từ nhân vật của truyện truyền kỳ Trung Hoa?
Kinh Dương Vương chưa chắc đã là nhân vật lịch sử có thật. Chứng cớ nào đề chúng tôi có thể đi đến nghi ngờ như vậy?
Chứng cứ nằm ngay trong Toàn thư, sau khi viết về lai lịch, cuộc đời của Kinh Dương Vương, Ngô Sĩ Liên đã viết: “Xét Đường kỷ chép: thời Kinh Dương có người đàn bà chăn dê, tự xưng là con gái út của Động Đình Quân, lấy con thứ của Kinh Xuyên, bị bỏ, viết thư nhờ Liễu Nghị tâu với Động Đình Quân. Thế thì Kinh Xuyên và Động Đình đời đời làm thông gia với nhau đã từ lâu rồi”.
Chúng ta còn thấy chuyện này được chép trong sách Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp (thế kỷ XIV?), rồi sau đó lại được sao chép nguyên vẹn vào trong thần tích của Mẫu Thoải tại Tuyên Quang.
...Lần xa hơn nữa, các học giả đều thống nhất cho rằng, truyện Kinh Dương Vương có sự sao chép từ tiểu thuyết Liễu Nghị truyện (柳毅傳) do Lý Triều Uy sáng tác vào đời Đường. Truyện có thể tóm tắt như sau: Liễu Nghị là một nho sinh thi trượt, trên đường gặp một thiếu phụ chăn dê xinh đẹp nhưng dáng vẻ tiều tụy. Người phụ nữ ấy nói rằng mình là con gái của Long Vương ở hồ Động Đình, vốn lấy con trai thứ của Kinh Xuyên, nhưng bị bạc đãi, bắt đi chăn dê, nên muốn nhờ Liễu Nghị chuyển thư đến cho cha để báo tình cảnh của mình. Liễu Nghị đem thư xuống Long cung. Em trai Long Vương là Tiền Đường giận quá nên giết con trai của Kinh Xuyên, cứu cháu về, rồi định gả cho Liễu Nghị. Nghị từ chối, xin về, được Long vương ban cho nhiều vàng bạc châu báu. Sau Liễu Nghị lấy vợ, lần nào lấy xong vợ cũng chết. Con gái Long Vương thấy vậy bèn nhớ lại duyên cũ, muốn báo đáp bèn hóa làm người con gái xinh đẹp mà lấy Liễu Nghị làm chồng. Sau hai vợ chồng đều thành tiên.
Liễu Nghị truyện được coi là một truyện truyền kỳ sớm nhất của Trung Quốc. Từ cuối đời Đường, truyện đã được lưu hành rộng rãi trong dân gian. Đến thời Tống, truyện được Thượng Trọng Hiền chuyển thể sang kịch bản tạp kịch với tên “Động Đình hồ Liễu Nghị truyền thư”. Liễu Nghị trở thành tích truyện rất được ưa thích trong văn hóa diễn xướng của người Trung Quốc. Hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng ra đời, như nhà Tống có “Liễu Nghị đại thánh nhạc”; nhà Kim có “Liễu Nghị truyền thư”; triều Nguyên có “Liễu Nghị Động Đình long nữ”; thời Minh Thanh có “Quất bồ ký”, “Long tiêu ký”, “Long cao ký”, “Thẩn trung lâu”, “Thừa long giai thoại”. Trong đó, cho đến nay, “Liễu Nghị truyền thư” (còn có tên “Thủy tinh cung”, “Liễu Nghị kỳ duyên”) vẫn được người Trung Quốc coi như là một kịch mục kinh điển của hý kịch Trung Hoa. Từ năm 1952, vở kịch đã nhiều lần được dàn dựng bởi các đạo diễn khác nhau, số lần trình diễn hiện chưa thể thống kê hết được. Không những thế, tích truyện này còn trở thành đề tài làm tranh khắc ván và thư họa truyền thống (thủy mặc). Ngày 17/7/2004, Bưu cục Quốc gia Trung Quốc đã phát hành bộ tem “Dân gian truyền thuyết – Liễu Nghị truyền thư”, gồm bốn con tem với bốn hoạt cảnh: “Long nữ gửi thư”, “Thư gửi Động Đình”, “Cốt nhục đoàn tụ”, và “Nghĩa trọng tình thâm”.
Những nhận định của sử gia đời sau
Đến đây có thể nhận định về nguồn gốc của các mô-típ, các nhân vật, cũng như địa danh trong truyện Kinh Dương Vương được chép trong Toàn thư. Ngô Sĩ Liên đã tình cờ đem một số chi tiết của truyện Liễu Nghị để ghép với các huyền thoại khác như Lạc Long Quân – Âu Cơ, và coi đó như nguồn gốc khởi đầu cho sự xuất hiện của Hùng Vương – triều đại mà người Việt ngày nay coi như lịch sử đích thực của mình.
Các nhà Nho Việt Nam trong nhiều thế kỷ hẳn phải biết đến một tác phẩm có ảnh hưởng lớn như truyện Liễu Nghị. Bằng chứng là nhà thơ nổi tiếng Thái Thuận (Tiến sĩ 1475) cũng đã sáng tác bài thơ “Liễu Nghị truyền thư”. Nhưng đó là chuyện của văn học.
Còn với tư cách người viết sử, không ít sử gia thời Trung Đại đã phản đối cách lắp ghép của Ngô Sĩ Liên. Đầu tiên, phải kể đến những nhận định của Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt sử kí Tiền biên. Ông viết: “Nay xét phần Ngoại kỉ chép: Năm Nhâm Tuất thì bắt đầu Giáp Tí là năm nào? Ghi chép tên húy Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân sao riêng lược bỏ Hùng Vương? Thời Ngũ Đế trở về trước thì chưa từng gọi là vương. Xích Quỷ là tên nào, mà lại để làm tên nước. Một loạt hoang đường càn rỡ đều là đáng bỏ đi. Cái lỗi ấy lại tại kẻ hiếu sự thấy trong Liễu Nghị truyền thư. Trong truyện nói con gái vua Động Đình gả cho con thứ của Kinh Xuyên Vương, tưởng càn Kinh Xuyên là Kinh Dương. Đã có vợ chồng thì có cha con, vua tôi, nhân đó mà thêu dệt thành văn, cốt cho đủ số đời vua, nhà làm sử theo đó mà chọn dùng, và cho đó là sự thực. Phàm những chuyện lấy từ Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, cũng như Bắc sử lấy ở Kinh Nam Hoa và thiên Hồng Liệt đấy.”
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (1856 – 1883) viết: “Vâng tra sử cũ, danh xưng Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân trong ‘Kỉ họ Hồng Bàng, vốn từ thời Thượng cổ, thuộc thuở hồng hoang, tác giả căn cứ vào cái không và làm ra có, sợ rằng không đủ độ tin cậy, lại phụ hội với Liễu Nghị truyện của nhà viết tiểu thuyết đời Đường, lấy đó làm chứng cứ”. Chuẩn tâu những lời của sử quan, vua Tự Đức đã nhận định đây là những “câu truyện đề cập đến ma trâu, thần rắn, hoang đường không có chuẩn tắc” và kiên quyết loại Kinh Dương và Lạc Long ra khỏi chính sử bằng cách đưa xuống phụ chú dưới niên kỷ Hùng Vương, để “cho hợp với cái nghĩa lấy nghi truyền nghi”.
Qua những trình bày ở trên, độc giả đã phần nào mường tượng ra con đường thu nhận biến đổi tích truyện từ truyện Liễu Nghị đến truyện Kinh Dương. Đây sẽ là những tư liệu thú vị để nghiên cứu về tiếp xúc văn học văn hóa giữa Việt Nam và Trung Hoa. Đồng thời cũng là “mẫu sử liệu” thú vị cho giới nghiên cứu khám nghiệm và giám định.
Đến đây, chúng tôi xin mượn lời của giáo sư Liam Christopher Kelley (Đại học Hawaii) để kết thúc bài viết này: Trải qua nhiều thế kỷ, những truyền thống mà họ [các sử gia] sáng tạo đã trở thành cái tự nhiên thứ hai (second nature). Thực tế, trong nửa thế kỷ qua, dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc, những truyền thống được sáng tạo ấy (invented traditions) đã và đang trở thành những sự thực không thể thay đổi” (trích bài viết của Trần Trọng Dương)
09.11.2024