HỆ THỐNG TỔ CHỨC, CHỨC SẮC, CHỨC VIỆC, GIÁO LÝ, GIÁO LUẬT, LỄ NGHI CỦA PHẬT GIÁO

NGƯỜI BIÊN SOẠN: TS DƯƠNG HOÀNG LỘC

Tranh vẽ cảnh thái tử Tất-đạt-đa đạt tới giác ngộ

1. Bối cảnh ra đời 

 Phật giáo ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI-TCN. Thời điểm này, Ấn Độ là quốc gia khá phát triển, nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp đạt nhiều thành tựu. Các đô thị ra đời và buôn bán sầm uất. Hoạt động thương mại của giới thương buôn người Ấn đã vươn đến nhiều vùng đất ở châu Á như Ba Tư, Ả Rập, Myanmar,…. Văn minh Ấn Độ đã đạt trình độ phát triển rực rỡ, trở thành một trong nền văn minh cổ của thế giới với các thành tựu chữ viết, văn học, tôn giáo, nghệ thuật, y học, thiên văn,…Nền văn minh này còn được gọi là văn minh Vệ đà. Chủ nhân ban đầu của nền văn minh Ấn Độ cổ đại là người Dravida bản địa sống chủ yếu ở miền Nam, sau này là người Arian nhập cư vào phía Bắc rồi dần tiến qua phía Đông nơi có sông Ấn và dọc theo sông Hằng để làm chủ Ấn Độ đất đai rộng lớn, tài nguyên giàu có. Các bộ lạc của họ xây dựng thành những tiểu quốc, đứng đầu là những ông vua. Tuy văn minh, kinh tế phát triển nhưng xã hội Ấn Độ hình thành chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, phụ nữ bị khinh rẻ. Để hợp thức hóa và xác lập sự thống trị của tầng lớp trên, trong xã hội chia thành 4 đẳng cấp rõ rệt: Bà La môn, Sát đế lị (Vua chúa, quí tộc, chiến binh), Vệ xá (nông dân, thợ thủ công, nhà buôn,…), thủ đà la (nô lệ). Đạo Bà la môn và tầng lớp tu sĩ chi phối tư tưởng xã hội, chiếm vị trí quan trọng nhất thời bấy giờ. Giải thích về quyền lực của đẳng cấp này, trong sách Văn minh Ấn Độ, Will Durant cho rằng: 

 “Nhưng lần hết chiến tranh tới hòa bình, cần phát triển canh nông mà tôn giáo rất có ích cho canh nông, chỉ cho dân cách cầu Trời phù hộ cho khỏi các tai vạ thời bấy giờ, cho nên ngày càng quan trọng về phương diện xã hội, các điển lễ ngày càng phiền phức thêm, bây giờ cần một hạng người làm trung gian giữa người và các quỉ thần, nên tập cấp Bà La môn đông lên, giàu có lên, uy quyền tăng lên. Lãnh nhiệm vụ giáo dục thanh niên, họ truyền miệng lại các lịch sử, văn học và các luật lệ của giòng giống cho các thế hệ sau, thành thử họ có thể tái tạo lại dĩ vãng và chuẩn bị tương lai theo ý họ, họ dạy dỗ các thế hệ mới, bắt mỗi thời phải tôn trọng thêm các tu sĩ, rốt cuộc họ tạo được uy tín cho tập cấp họ, và lần lượt họ vươn lên trên các tập cấp khác trong xã hội Ấn Độ”1

 Như vậy, xã hội Ấn Độ tuy đạt được các thành tựu văn minh cũng như kinh tế phát triển, nhưng bất bình đẳng, bất công xã hội tồn tại dai dẳng và khắc nghiệt, nhiều người dân, nhất là đẳng cấp hạ tiện sống trong sự khổ sở, bế tắc lẫn tuyệt vọng. Từ đó nhiều tôn giáo ra đời với hệ tư tưởng, học thuyết chống lại hiện thực xã hội phân biệt đẳng cấp, chống lại Bà la môn giáo. Vì vậy, Phật giáo ra đời chính là sự phản ứng lại với Bà la môn giáo quá chú trọng đến nghi lễ đòi hỏi hiến tế súc vật, là sự phản ứng của tầng lớp Sát đế lị với trật tự đẳng cấp định sẵn trong xã hội do các giáo sĩ Bà la môn đứng bên trên và nắm độc quyền về tôn giáo. 

 2. Đức Phật Thích Ca- người sáng lập Phật giáo 

 Người sáng lập Phật giáo là Đức Phật Thích Ca-vị hoàng tử thành Phật hay còn gọi là Bậc giác ngộ, giải thoát hoàn toàn. 

 Trước khi thành đạo tại Bồ Đề đạo tràng, Đức Phật Thích Ca tên là Tất Đạt Đa (Siddhattha), họ Cù-đàm (Gotama), sống vào thế kỷ VI trước công nguyên. Tất Đạt Đa là con của Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) của nước Cộng hòa Thích Ca (Sakya), kinh đô là Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu) thuộc về Bắc Ấn. Với bẩm chất thông minh và nhân hậu, lại được nuôi dưỡng và giáo dục bài bản, thái tử ngày càng chứng tỏ trí tuệ, tài năng xuất sắc, nhưng hay bản thân lại thích trầm tư suy nghĩ. Khi đến độ tuổi trưởng thành, thái tử lập gia đình với công chúa Da du đà la (Yasodhara), sinh hạ người con trai tên La Hầu La (Rahula). Tuy cuộc sống đế vương, hạnh phúc gia đình bên người vợ xinh đẹp nhưng thái tử vẫn không bớt ưu tư về kiếp nhân sinh. Một lần khi dạo xung quanh kinh thành Ca-tỳ-la- vệ, ngài chứng kiến người dân khổ sở vì sinh, già, bệnh và chết. Điều này đã tác động mạnh mẽ đến tâm trí của thái tử và sau đó ngài rời bỏ gia đình, cung điện đi tìm chân lý giúp giải thoát nỗi khổ của nhân loại. Thái tử mất 6 năm ròng rã học hỏi với các nhà tư tưởng nổi tiếng Ấn Độ thời đó nhưng vẫn chưa thỏa mãn trước những ưu tư đặt ra, kể cả khi thực hành phương pháp tu tập khổ hạnh. Năm 35 tuổi, tại Bồ Đề đạo tràng (Bodhgaya), bằng kiên trì nỗ lực tự thân, ngài giác ngộ được bản chất, nguyên lý vận hành của con người và thế giới, thấy được sự thật về khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến sự diệt khổ. Trong 45 năm sau đó, Phật Thích Ca đem giáo pháp truyền bá khắp đất nước Ấn Độ, được nhiều tầng lớp trong xã hội ủng hộ, ngài thu nhận đệ tử thuộc các đẳng cấp khác nhau vào Tăng đoàn. Năm 80 tuổi, tại vùng đất Câu thi la (Kushinaga), Đức Phật nhập Niết bàn tại rừng cây Tala. 

 Sau khi Phật Thích Ca viên tịch, xá lợi của ngài được đệ tử phân chia rồi xây tháp thờ phụng, thể hiện niềm tin sâu sắc về Đức Phật và Phật pháp. Học giả Phật giáo người Nhật-Arika Sadataka lưu ý sự khác biệt lớn trong niềm tin về Phật Thích Ca của tín đồ Phật giáo như sau: 

 “Đối với tín đồ của Phật giáo tiền-Đại thừa thì đức Phật là một nhân vật lịch sử, ngài đã nhập niết bàn (nivana), vì vậy, bây giờ ngài không còn trên thế gian nữa. Ngôi bảo tháp không gì khác ngoài là phần mộ, một công trình tượng trưng cho sự diệt độ của Đức Phật. Do thời gian và khoảng cách giữa đức Phật và tín đồ gia tăng qua nhiều thế kỷ sau khi ngài tịch diệt, nên họ có khuynh hướng thần thánh hóa ngài.”

 Gắn với những cột mốc quan trọng trong cuộc đời của Đức Phật là 4 thắng tích ở Ấn Độ được tín đồ Phật giáo trên thế giới hành hương chiêm bái, đó là: Lâm Tỳ Ni (Lumbini, nay thuộc Nepal)-nơi đản sanh, Bồ đề đạo tràng (Bodhgaya)-nơi thành đạo, Ba La nại (Varanasi)-nơi thuyết pháp đầu tiên, Câu thi la (Kushinaga)-nơi nhập Niết bàn.

 3. Giáo lý 

 Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn diễn ra 4 lần kiết tập kinh điển để ghi chép những lời dạy của ngài cho hàng đệ tử. Kinh điển của Phật giáo gồm 3 tạng: Kinh-luật-luận, còn gọi là Tam tạng kinh điển, chứa đựng toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật giáo. Những nội dung chính của giáo lý nhà Phật gồm:

 - Tam bảo: tức ba ngôi báu ở thế gian, gồm Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo, cần được kính trọng. Ba ngôi này có mặt trong nhau, vì gắn bó mật thiết, không thể tách rời. Tam bảo chính thức thiết lập khi Đức Phật thuyết bài pháp đầu tiên: người nói Pháp (Phật), bài pháp được nói (Pháp bảo), người nghe pháp (Tăng bảo). Phật là bậc giác ngộ, đại bi, đại trí, Pháp là những lời dạy của Đức Phật Thích Ca được ghi lại trong ba tạng Kinh, Luật, Luận, còn Tăng gọi cách khác là hòa hợp chúng, dùng để chỉ đoàn thể xuất gia tu học, gồm ít nhất 4 vị tỳ kheo trở lên. 

 -Trung đạo: Là con đường tu tập cần tránh hai xu hướng cực đoan, một là quá thiên về dục lạc nhằm thỏa mãn nhu cầu bản thân, hai là khổ hạnh để hành hạ xác thân. Thực hành trung đạo cần tránh xa hai xu hướng cực đoan này, biết thiểu dục tri túc, sống một đời sống vật chất vừa đủ để tu hành, giúp dễ dàng chứng đắc trí tuệ và giải thoát

 - Tứ diệu đế: Đây là giáo lý quan trọng, căn bản của Phật giáo. Cùng với Trung đạo, Tứ Diệu Đế là nội dung bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật cho năm vị đệ tử đầu tiên-anh em Kiều Trần Như (Kondanna). Tứ diệu đế hay còn gọi là Tứ thánh đế, gồm: Khổ đế (chân lý về sự khổ), tập đế (nguồn cội của sự khổ-ái dục), diệt đế (cách chấm dứt sự đau khổ), đạo đế (con đường duy nhất đến Niết bàn). Đặc biệt, để chấm dứt sự khổ, đạt giác ngộ và giải thoát bằng cách duy nhất là trau dồi Bát chánh đạo: Chánh kiến (hiểu biết đúng đắn), chánh tư duy (hiểu biết chân chánh), chánh ngữ (lời nói chân chánh), chánh nghiệp (hành động chân chánh), chánh mạng (hành nghề sinh sống chân chánh), chánh tinh tấn (cố gắng chân chánh), chánh niệm (suy niệm chân chánh ở 4 lĩnh vực: niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp), chánh định (nhiếp tâm an trụ vào một điểm duy nhất). Trong tám yếu tố này, chánh kiến và chánh tư duy thuộc về Tuệ, chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng thuộc về Giới, còn chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định liên quan đến Định. Trong giáo lý nhà Phật, Giới-Định Tuệ được gọi là Tam vô lậu học- cái kiềng ba chân trong việc thực hành tâm linh đi đến mục đích thành tựu giải thoát. 

 - Nghiệp, nhân quả và luân hồi: Phật giáo nhấn mạnh tất cả chúng sanh đều có cái nghiệp của mình. Nghiệp là hành động có tác ý, bắt nguồn từ tâm thức và được thể hiện ra ngoài qua những hoạt động của thân, khẩu, ý. Về đại thể, nghiệp được chia thành thiện nghiệp và ác nghiệp. Hạnh phúc hay đau khổ bất hạnh mà một người lãnh thọ chịu sự chi phối của nghiệp, đó là qui luật nhân quả. Sự vận hành của nghiệp nằm trong sự vận hành của nhân quả. Tiếp theo, Đức Phật nói rõ ràng có những người sau khi chết phải bị sanh vào cảnh khổ vì đã sống cuộc đời tội lỗi ô trược và có người nhờ hành thiện do tạo nghiệp lành, được tái sanh vào nhàn cảnh. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng: Trọng tâm của giáo lý nhà Phật không phải là nghiệp đã qua mà là nghiệp đang làm, sẽ làm. Con người có thể chủ động chuyển hóa nghiệp xấu bằng việc làm, lời nói, suy nghĩ theo chiều hướng tốt đẹp nhất giúp tạo ra một đời sống tốt đẹp trong hiện tại và tương lai bằng đời sống đạo đức trọn ven trong sự tỉnh thức và trí tuệ. 

 - Thuyết duyên khởi: Là giáo lý nền tảng của Phật giáo, là nguyên lý vận hành tự nhiên của tất cả sự vật, hiện tượng do Đức Phật quán sát, chứng ngộ rồi giảng dạy nhằm hiểu rõ về khổ, đoạn tận khổ đau trên nguyên tắc: Cái này có nên cái kia có, cái này sanh nên cái kia sanh, cái này không có nên cái kia không, cái này diệt nên cái kia diệt. Cụ thể, cuộc sống mang tính hỗ tương, hài hòa, gắn kết giữa con người với gia đình, xã hội và môi trường thiên nhiên. Không chỉ không thể tách rời mà mỗi hành vi tốt, xấu của con người ít nhiều ảnh hưởng đến gia đình, xã hội và tự nhiên cũng như ngược lại, những yếu tố này tác động trở lại chính con người. Bên cạnh đó, Thuyết duyên khởi chia làm 2 phần: nguyên nhân của các hiện tượng khổ đau (lý duyên sinh) và ý nghĩa sự đoạn diệt khổ đau (lý duyên diệt), mỗi phần gồm 12 chi nên được gọi là Thập nhị nhân duyên. Lý duyên sinh là một chuỗi các nhân duyên cùng sinh khởi và vận hành, tương tác lẫn nhau, tạo nên một vòng chuyển động không gián đoạn, khởi đầu từ vô minh: Vô minh phát sanh hành, hành phát sanh thức, thức phát sanh danh sắc, lục căn phát sanh xúc, xúc phát sanh thọ, thọ phát sanh ái, ái phát sanh thủ, thủ phát sanh hữu, hữu có sanh, sanh có lão, tử, sầu muộn, ta thán, đau khổ, buồn rầu và thất vọng. Lý duyên diệt bắt đầu từ tận diệt vô minh dẫn đến chấm dứt hành, chấm dứt hành dẫn đến chấm dứt thức, chấm dứt thức dẫn đến chấm dứt danh-sắc, chấm dứt danh sắc dẫn đến chấm dứt lục căn, chấm dứt lục căn dẫn đến chấm dứt xúc, chấm dứt xúc dẫn đến chấm dứt thọ, chấm dứt thọ dẫn đến chấm dứt ái, chấm dứt ái dẫn đến chấm dứt thủ, chấm dứt thủ dẫn đến chấm dứt hữu, chấm dứt hữu dẫn đến chấm dứt sanh, chấm dứt sanh dẫn đến chấm dứt lão, tử, sầu muộn, ta thán, đau khổ, buồn rầu và thất vọng. Như vậy, giáo lý duyên khởi nhấn mạnh vô minh đưa con người vào vòng sanh tử, khổ đau. Muốn chấm dứt vô minh thì cần có trí tuệ. 

 - Tam pháp ấn: bao gồm vô thường, khổ, vô ngã. Đây là ba đặc tính phổ quát của mọi hiện hữu, phản ánh bản chất thật của con người và vạn vật. Vô thường là không có gì tồn tại vĩnh viễn, độc lập mà nó luôn biến dịch, thay đổi. Hiểu một cách đơn giản, không có gì là bất biến trong cuộc đời này. Khổ là vì bất toại nguyện, từ đó con người mới sinh ra khổ đau, buồn bả, chán chường, tuyệt vọng,…Mặt khác, vì vô thường nên vạn vật đều bất toàn, giả tạm, trống rỗng nên đưa đến khổ đau nếu bám chấp vào nó. Còn vô ngã nghĩa là không có con người, vạn vật hiện hữu một cách độc lập, không thể kiểm soát hoàn toàn chúng, buộc chúng phải thuộc sở hữu vĩnh viễn của mình vì chúng tồn tại theo quy luật thành, trụ, hoại, diệt.

4. Giới luật 

 Trong Phật giáo, giới luật được đề cao ngay từ thời Đức Phật cho đến hiện nay. Giới luật là những qui tắc, chuẩn mực hoàn thiện hành vi đạo đức của tín đồ Phật giáo nhằm xây dựng phẩm hạnh và nhân cách. Giới luật do Đức Phật Thích Ca định ra cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia. Qua giới luật nhà Phật phần nào thấy được những phong tục tập quán, ứng xử giao tiếp xã hội của Ấn Độ thời Đức Phật Thích Ca. 

 Giới luật dành cho hàng xuất gia khác biệt giữa Tăng và Ni. 

- Người nam, người nữ muốn trở thành 1 Tỳ kheo bắt buộc phải thọ giới Sa di (tập sự) gồm 10 giới. Một thời gian sau thì tiếp tục thọ giới Tỳ kheo (250 giới dành cho Tỳ kheo Tăng, 348 giới dành cho Tỳ Kheo Ni). 

- Mặt khác, một Sadi Ni muốn thọ giới Tỳ kheo phải trải qua thọ Thức xoa ma na (gọi là học pháp nữ) với 4 trọng giới căn bản, 6 học pháp và 292 hành pháp. 

- Sau khi thọ giới Tỳ kheo, một vị Tăng, Ni trải qua mùa an cư kiết hạ 3 tháng được tính 1 tuổi hạ. Ở Việt Nam, dựa vào tuổi đời, tuổi hạ để tấn phong giáo phẩm Hòa thượng, Ni trưởng (60 tuổi đời, 40 tuổi hạ trở lên), Thượng tọa, Ni sư (45 tuổi đời, 25 tuổi hạ). 

 Giới luật dành cho người Phật tử gồm tam quy (quy y Phật, quy y Pháp, qui y Tăng) và năm giới cấm: 

1. Không được sát sanh, 

2. Không được trộm cắp, 

3. Không được tà dâm, 

4. Không được nói dối, 

5. Không được uống rượu. 

Ngoài ra, các chùa tổ chức cho Phật tử thọ Bát quan trai giới, ngoài ngũ giới cấm (giới không tà dâm thành không hành dâm) bổ sung thêm 3 giới nữa: Không được trang sức, ca hát, nhảy múa, Không được nằm giường ghế cao sang, Không được ăn phi thời. 

Đặc biệt, với Phật giáo Bắc tông, người Phật tử còn được thọ Thập thiện giới:

 Thuộc về Thân: 

Không sát sanh, 

không trộm cắp, 

không tà dâm. 

Thuộc về khẩu: 

Không nói dối, 

không nói lưỡi hai chiều, 

không nói lời thuê dệt, 

không nói lời thô lỗ. 

Thuộc về ý: 

không tham lam keo kiệt, 

không sân hận, 

không tà kiến

Và Bồ tát giới (10 giới trọng, 48 giới thường).


1. Will Durant (2010), Lịch sử Văn minh Ấn Độ (Nguyễn Hiến Lê dịch), Hà Nội, Nxb. Văn hóa thông tin, trang 28.
2. Akira Nakamura (2017), Vũ trụ quan Phật giáo triết học và nguồn gốc (Trần Văn Duy dịch và chú thích), Hà Nội, Nxb. Tri Thức, trang 211)
----------------

      Tổ chức của Phật giáo

      Phật giáo chủ trương không có giáo quyền, không công nhận thần quyền, không có tổ chức theo hệ thống thế giới. Ban đầu Phật giáo chỉ có những nhóm người cùng nhau đi truyền giáo, gọi là Tăng già hoặc Tăng đoàn hay Giáo đoàn. Tăng già có từ 4 người trở lên. Thành phần của đoàn thể Tăng già có thể bao gồm cả 2 chúng xuất gia và 2 chúng tại gia.

      Đứng đầu đoàn thể Tăng già là một vị Trưởng lão đạo cao đức trọng nhất trong đoàn thể được tập thể các sư suy tôn để quản lý, điều hành Tăng đoàn. Ngoài ra còn một số vị trong hàng Trưởng lão có đạo hạnh và tài năng đứng ra giúp việc.

      Tuy nhiên, sau này trong quá trình du nhập và phát triển đến các quốc gia, Phật giáo đã theo tinh thần Khế lý - Khế cơ để có những hình thức tổ chức, sinh hoạt tăng đoàn cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cũng như truyền thống, văn hoá của mỗi nơi.

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn