Giai đoạn 1533-1599
Về cơ bản, bộ máy hành chính giai đoạn này dựa theo thời Lê Thánh Tông trước đây. Đầu não là Đại Tư đồ, Đại Tư mã, Đại tư không, Tam thái (Thái sư, thái úy, thái bảo), Tam thiếu (Thiếu sư, thiếu úy, thiếu bảo).
Trong triều đình vẫn có tổ chức Lục bộ là Lại Bộ, Lễ Bộ, Hộ Bộ, Binh Bộ, Hình Bộ, Công bộ. Mỗi bộ có một viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường trực là Vụ tư sảnh đứng đầu. Thượng thư có hàm Tòng nhị phẩm, Thị lang có hàm Tòng tam phẩm, còn viên Tư vụ ở Vụ tư sảnh chỉ có hàm tòng bát phẩm.
Giám sát Lục bộ là Lục khoa tương ứng. Giúp việc cho Lục bộ là lục tự, gồm Đại lý tự, Thái thường tự, Quang lộc tự, Thái bộc tự, Hồng lô tự, Thượng bảo tự.
Về ban võ, chúa Trịnh phỏng theo chế độ của thời Lê sơ. Quân lính chia làm 5 phủ gồm đô đốc phủ: trung quân, bắc quân, nam quân, tây quân, đông quân. Mỗi phủ có chức Tả, Hữu đô đốc, Đồng tri và Thiêm sự.
Giai đoạn 1600-1664
Năm 1600, Trịnh Tùng được phong vương, chính thức trở thành chúa. Họ Trịnh được hưởng thế tập ngôi chúa. Từ đây họ Trịnh lập ra hệ thống tổ chức chính quyền ở phủ chúa tương ứng với chính quyền có sẵn bên cung vua.
Trước tiên, Trịnh Tùng bãi bỏ chức Tả, Hữu thừa tướng và Bình chương của thời trước, đặt ra chức Tham tụng làm việc Tể tướng. Quyền lực của Tham tụng rất lớn, đều do chúa Trịnh tiến cử từ các viên Thượng thư (tương đương với Bộ trưởng) hoặc Thị lang lên.
Năm 1601, Trịnh Tùng đặt thêm chức Bồi tụng đảm đương trọng trách trong phủ Chúa. Dưới Tham tụng và Bồi tụng, chúa Trịnh đặt thêm các Phiên, tương đương với các Bộ bên cung vua. Ban đầu chỉ có 3 Phiên là Bộ phiên, Binh phiên và Thủy sư phiên nhằm đáp ứng nhu cầu quản trị của chúa Trịnh trong thời kỳ đầu. Tham tụng và Bồi tụng được gọi là quan Phủ liêu.
Tờ tâu lên vua gọi là sớ, tâu lên chúa gọi là khải.
Giai đoạn 1664-1718
Chúa Trịnh thiết triều, do Samuel Baron vẽ năm 1685.
Tuy có Tam phiên nhưng về cơ bản, trong giai đoạn đầu, chức năng nhiệm vụ chủ chốt vẫn ở Lục bộ. Số Thượng thư Lục bộ trong hơn 100 năm đầu thời Lê trung hưng còn thiếu, mãi đến năm 1664, Trịnh Tạc mới đặt đủ Thượng thư (tương đương Bộ trưởng) cả sáu bộ.
Năm 1675, chúa Trịnh Tạc quy định lại một số chức năng của Lục bộ như sau:
· Lại Bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng, xét hạch và thăng giáng quan tước
· Lễ Bộ: Trông coi việc nghi lễ, tế tự, mừng tiệc yến; học hành thi cử, đúc ấn tín; các chi tiết về mũ áo, chương tấu, việc đi cống, đi sứ, vào chầu. Kiêm coi việc thiên văn, y, bốc (bói toán), sư sãi, giáo phường, đồng văn, nhã nhạc.
· Hộ Bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng, thóc tiền và ruộng lộc, thuế muối, sắt.
· Binh Bộ: Trông coi việc binh nhung, cấm vệ, xe ngựa nghi trượng, khí giới, dịch trạm; đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu có dân tộc thiểu số và ứng phó các việc khẩn cấp;
· Hình Bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc tù, ngục, kiện cáo;
· Công bộ: Trông coi việc xây dựng thành trì, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quản đốc thợ thuyền; quản lý núi rừng, sông đầm, vườn tược.
Về cơ bản, Lục bộ vẫn nắm quyền hành khá lớn. Dù đặt ra Tam phiên trực thuộc mình và hoàn toàn chi phối Lục bộ nhưng chúa Trịnh vẫn đóng vai trò người phụ tá cao nhất của vua Lê.
Về ban võ, Trịnh Tạc đặt ra chức Chưởng phủ sự, Thự phủ sự và Quyền phủ sự đứng đầu, gọi là quan Ngũ phủ. Họ có nhiệm vụ bàn định các việc trong phủ và tra xét các tờ khải tâu lên. Những người đảm nhận chức vụ này đều là công thần hoặc thân thuộc.
Từ 1718
Năm 1718, chúa Trịnh Cương lập ra đủ Lục phiên ở phủ chúa: Ngoài Binh phiên và Hộ phiên đặt từ trước, tới lúc đó đặt thêm Lại phiên, Lễ phiên, Hình phiên, Công phiên, tương đương 6 Bộ của triều đình vua Lê (Thủy sư phiên thuộc về Binh phiên). Kể từ lúc này, toàn bộ việc tiền tài, thuế khóa, việc quân, việc dân đều thuộc cả về các phiên ty
Việc thuế khóa trước kia do 46 hiệu đứng ra thu thì Trịnh Cương gộp cả vào trong 6 cung trực thuộc 6 phiên: Cung tả trưng, Cung hữu trưng, Cung Đông, Cung Nam, Cung Đoài, Cung Bắc.
Đứng đầu các Phiên là Tri phiên (tương đương với Thượng thư bên Lục bộ), Phó tri phiên (tương đương Thị lang), Thiêm tri phiên, Nội sai và Lại phiên cùng thuộc lại tất cả 60 người. Phẩm hàm của các quan lại bên Phiên thì Tri phiên tương đương Thượng thư, Phó tri phiên tương đương Thị Lang, còn các chức khác tương đương đều kém bên Lục bộ 1-2 bậc.
Thực quyền
Quá trình lập ra Ngũ phủ (ban võ) và Phủ liêu (Ban văn) cùng các cơ quan giúp việc (Lục phiên) là một quá trình thâu tóm quyền hành từ cung vua về phủ chúa. Triều đình vua Lê cuối cùng chỉ còn vài chức quan hư hàm làm nhiệm vụ nghi thức.
Về danh nghĩa, chúa Trịnh chỉ xưng vương và đứng đầu Ngũ phủ, Phủ liêu nhưng trên thực tế lại nắm hết quyền điều hành việc nước.
Các nhà sử học đánh giá, việc lập thêm các cơ quan giúp việc cho phủ chúa thực chất chuyển quyền hành cho chúa Trịnh và làm cồng kềnh thêm bộ máy chính quyền
Xét định quan chế.
1.Tước của Hoàng tộc Phong cho
Thân Vương Hoàng tử,dùng tên một Phủ làm hiệu,
Tự Thân Vương Thế tử của Thân vương,dùng tên một huyện ,
Tước Công Con Hoàng Thái tử,con Thân Vương
Tước Hầu Con trưởng của Hoàng Thái Tông, của Thân vương và của tước Công
Tước Bá Các con Hoàng Thái Tông,Tự thân vương,tước Công,con trưởng củaThân công chúa
(Công,Hầu, Bá thuộc hàng Chánh Nhất phẩm).
Tuớc Tử Con của Thân công chúa,con trưởng của tước Hầu, tước Bá
Tước Nam Con trưởng của Truy tặng Thân công chúa,các con tước Hầu tước Bá
(Tử,Nam thuộc hàng Tùng Nhất phẩm).
2.Tước của bầy tôi có công:
Quốc công Lấy tên một phủ làm hiệu,chỉ dùng một chữ,
Quận công huyện ,chỉ dùng một chữ,
Tước Hầu,Bá xã làm hiệu,dùng hai chữ
3. Cấp bậc của bầy tôi có công:
Văn huân có 5 bậc từ Thượng trụ quốc đến Tu thận Thiếu dõan
Võ huân có 5 bậc từ Thượng trụ quốc đến Thiết kỵ úy.
Mỗi bậc có chánh và tùng phẩm.
Văn giai có 9 bậc từ Chánh Nhất phẩm đến Tùng Cửu phẩm
Võ giai có 6 bậc từ Chánh Nhất phẩm đến Tùng Lục phẩm
Mỗi bậc có Chánh và Tùng.
Nội quan và Tản quan có 7 bậc từ Chánh Tam phẩm đến Tùng Cửu phẩm
Mỗi bậc có chánh và phó.
Cụ thể như sau:
Văn quan Võ quan
Chánh Nhất phẩm Thượng trụ quốc Thượng trụ quốc
Tùng Nhất phẩm Trụ quốc Trụ quốc
Chánh Nhị phẩm Chánh trị Thượng khanh Thượng hộ quân
Tùng Nhị phẩm Chánh trị Khanh Hộ quân
Chánh Tam phẩm Tư chánh Thượng khanh Thượng Khinh xa úy
Tùng Tam phẩm Tư chánh Khanh Khinh xa úy
Chánh Tứ phẩm Khuông mỹ Dõan Kiêu Kỵ úy
Tùng Tứ phẩm Khuông mỹ Thiếu dõan Phi Kỵ úy
Chánh Ngũ phẩm Tu thận Dõan Vân kỵ úy
Tùng Ngũ phẩm Tu thận Thiếu dõan Thiết Kỵ úy
Chức quan trọng yếu:
Đại thần Trọng chức,gồm: Thái Sư,Thái Úy,Thái Phó,Thái Bảo,
Thiếu Sư,Thiếu Úy,Thiếu Phó,Thiếu Bảo.
Đại thần yếu chức,gồm: Lục bộ,Lục khoa,Lục tự,Ngự sử 13 Đạo
Về hàng võ quan:
Trong kinh:Đặt Đô đốc phủ trong Ngũ Phủ quân,
Đặt Thủvệ tam ti gồm:
hai vệ Kim ngô và Cẩm y,
bốn vệ Hiệu lực,
bốn vệ Thần võ,
sáu vệ Điện tiền.
Các trấn ngòai đặt Phủ vệ Đô tri,
Các xứ ven sông biển đặt chức Tuần kiểm
4.Quan tước về Văn giai và Võ giai:
1.a. Thái Sư+Thái Úy+Thái Bảo đều hàm Chánh Nhất phẩm.
Những người giữ chức quan này:
về Văn giai thì thăng thụ là Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, gia thụ là Đặc tiến Khai phủ Kim tử Vinh lộc Đại phu;
về Võ giai thì thăng thụ là Đặc tiến Phụ quốc Thượng Tướng quân, gia thụ là Khai quốc Thượng Tướng quân.
1.b. Thái tử Thái Sư+Thái tử Thái Úy+Thái tử Thái Phó+ Thái tử Thái Bảo+Tả Đô đốc+Hữu Đô đốc đều hàm Tùng Nhất phẩm.
Những người giữ chức quan này:
về Văn giai thì thăng thụ là Sùng tiến Tuyên lộc Đại phu, gia thụ là Ngân thanh Tuyên lộc Đại phu;
về Võ giai thì thăng thụ là Sùng tiến Phụ quốc Đại Tướng quân, gia thụ là Sùng tiến Trấn quốc Thượng Tướng quân.
2.a. Thiếu Sư+Thiếu Úy+Thiếu Phó+Thiếu Bảo+ Đô kiểm điểm đề đốc+Đô đốc đồng tri+Đề lãnh đều hàm Chánh Nhị phẩm.
Những người giữ chức quan này về Văn giai thì sơ thụ là Quang tiến Đại phu, thăng thụ là Quang lượng Đại phu, gia thụ là Quang kiêm Đại phu;
về Võ giai thì sơ thụ là Chiêu nghị Tướng quân, thăng thụ là Chiêu hùng Tướng quân, gia thụ là Chiêu dũng Tướng quân.
2.b. Thái tử Thiếu Sư+Thái tử Thiếu Úy+Thái tử Thiếu Phó+Thái tử Thiếu Bảo+Thượng thư+Đô đốc+Thiêm sự+Tả Hữu kiểm điểm +Tham đốc+Phó đề lĩnh đều hàm Tùng Nhị phẩm.
Những người giữ chức quan này:
về Võ giai thì thăng thụ là Sùng tiến Phụ quốc Đại Tướng quân, gia thụ là Sùng tiến Trấn quốc Thượng Tướng quân.
2.a. Thiếu Sư+Thiếu Úy+Thiếu Phó+Thiếu Bảo+ Đô kiểm điểm đề đốc+Đô đốc đồng tri+Đề lãnh đều hàm Chánh Nhị phẩm.
Những người giữ chức quan này về Văn giai thì sơ thụ là Quang tiến Đại phu, thăng thụ là Quang lượng Đại phu, gia thụ là Quang kiêm Đại phu;
về Võ giai thì sơ thụ là Chiêu nghị Tướng quân, thăng thụ là Chiêu hùng Tướng quân, gia thụ là Chiêu dũng Tướng quân.
2.b. Thái tử Thiếu Sư+Thái tử Thiếu Úy+Thái tử Thiếu Phó+Thái tử Thiếu Bảo+Thượng thư+Đô đốc+Thiêm sự+Tả Hữu kiểm điểm +Tham đốc+Phó đề lĩnh đều hàm Tùng Nhị phẩm.
Những người giữ chức quan này:
về Văn giai thì sơ thụ là Phụng trực Đại phu, thăng thụ là Phụng công Đại phu, gia thụ là Phụng huấn Đại phu;
về Võ giai thì sơ thụ là Võ huân Tướng quân, thăng thụ là Võ lược Tướng quân, gia phụ là Võ nghị Tướng quân.
3.a. Tông Nhân phủ tông Nhân lệnh+Lăng chánh+Đô đài Ngự sử+Tả Hữu thứ tử+Đô Chỉ huy sứ+Đô tổng binh sứ+Tuyên uý đại sứ đều hàm Chánh Tam phẩm.
Những người giữ chức quan này:
về Văn giai thì sơ thụ là Thông chương Đại phu, thăng thụ là Thông lễ Đại phu, gia thụ là Thông nghị Đại phu;
về Võ giai, sơ thụ là Anh liệt Tướng quân, thăng thụ là Anh túc Tướng quân, gia thụ là Anh vĩ Tướng quân.
3.b. Tả Hữu Thị lang+Tông Nhân phủ Tả, Hữu tông chính+Lăng phó+Tả Hữu dụ đức+Thừa chính sứ+Đô chỉ huy Đồng tri+Các Viên Chỉ huy sứ ở các vệ Thần Võ, Hiệu Lực, Điện Tiền+Các Viên tổng tri, Tổng binh đồng tri ở các vệ thuộc ngũ phủ và Tuyên úy sứ đều hàm Tùng Tam phẩm.
Những người giữ chức quan này:
về Văn giai thì sơ thụ là Gia hạnh Đại phu, thăng thụ là Gia ích Đại phu, gia thụ là Gia thăng Đại phu;
Võ giai thì sơ thụ là Minh dực Tướng quân, thăng thụ là Minh quyết Tướng quân, gia thụ là Minh ý Tướng quân.
4.a. Hàn lâm viện Thừa chỉ+Phó Đô Ngự sử+Lăng thừa+Tả, Hữu Trung doãn+Tả, Hữu Xuân phường+Đô chỉ huy Thiêm sự+Các Chỉ huy sứ các ti Cẩm Y, Thiên Ngô, Thần Oai,Thần Tí, Du Nỗ+Các Viên tướng Đồng Tổng tri, Tổng binh thiêm sự ở các vệ thuộc ngũ phủ và Tuyên úy đồng tri đều hàm Chánh Tứ phẩm.
Những người giữ chức quan này:
về Văn giai thì sơ thụ là Trung trinh Đại phu, thăng thụ là Trung huệ Đại phu, gia thụ là Trung thuận Đại phu;
về Võ giai thì sơ thụ là Hoài Viễn Tướng quân, thăng thụ là Đinh Viễn Tướng quân, gia thụ là An Viễn Tướng quân.
4.b Đông các Đại Học sĩ+Quốc Tử Giám Tế tửu+Thông chính sứ+Tham chính+các Viên chỉ huy Tả Hữu tán thiện+các viên Chỉ huy Thiêm sự ở các vệ Hiệu Lực, Thần Võ,Điện Tiền+các viên Thiêm Tổng tri ở các vệ thuộc ngũ phủ và viên Tuyên úy Thiêm sự đều hàm Tùng Tứ phẩm.
Những người giữ quan chức này:
về Văn giai thì sơ thụ là Triều liệt Đại phu, thăng thụ là Triều đoan Đại phu, gia thụ là Triều tĩnh Đại phu;
về Võ giai thì sơ thụ là Võ huân Tướng quân, thăng thụ là Võ lược Tướng quân, gia phụ là Võ nghị Tướng quân.
3.a. Tông Nhân phủ tông Nhân lệnh+Lăng chánh+Đô đài Ngự sử+Tả Hữu thứ tử+Đô Chỉ huy sứ+Đô tổng binh sứ+Tuyên uý đại sứ đều hàm Chánh Tam phẩm.
Những người giữ chức quan này:
về Văn giai thì sơ thụ là Thông chương Đại phu, thăng thụ là Thông lễ Đại phu, gia thụ là Thông nghị Đại phu;
về Võ giai, sơ thụ là Anh liệt Tướng quân, thăng thụ là Anh túc Tướng quân, gia thụ là Anh vĩ Tướng quân.
3.b. Tả Hữu Thị lang+Tông Nhân phủ Tả, Hữu tông chính+Lăng phó+Tả Hữu dụ đức+Thừa chính sứ+Đô chỉ huy Đồng tri+Các Viên Chỉ huy sứ ở các vệ Thần Võ, Hiệu Lực, Điện Tiền+Các Viên tổng tri, Tổng binh đồng tri ở các vệ thuộc ngũ phủ và Tuyên úy sứ đều hàm Tùng Tam phẩm.
Những người giữ chức quan này:
về Văn giai thì sơ thụ là Gia hạnh Đại phu, thăng thụ là Gia ích Đại phu, gia thụ là Gia thăng Đại phu;
Võ giai thì sơ thụ là Minh dực Tướng quân, thăng thụ là Minh quyết Tướng quân, gia thụ là Minh ý Tướng quân.
4.a. Hàn lâm viện Thừa chỉ+Phó Đô Ngự sử+Lăng thừa+Tả, Hữu Trung doãn+Tả, Hữu Xuân phường+Đô chỉ huy Thiêm sự+Các Chỉ huy sứ các ti Cẩm Y, Thiên Ngô, Thần Oai,Thần Tí, Du Nỗ+Các Viên tướng Đồng Tổng tri, Tổng binh thiêm sự ở các vệ thuộc ngũ phủ và Tuyên úy đồng tri đều hàm Chánh Tứ phẩm.
Những người giữ chức quan này:
về Văn giai thì sơ thụ là Trung trinh Đại phu, thăng thụ là Trung huệ Đại phu, gia thụ là Trung thuận Đại phu;
về Võ giai thì sơ thụ là Hoài Viễn Tướng quân, thăng thụ là Đinh Viễn Tướng quân, gia thụ là An Viễn Tướng quân.
4.b Đông các Đại Học sĩ+Quốc Tử Giám Tế tửu+Thông chính sứ+Tham chính+các Viên chỉ huy Tả Hữu tán thiện+các viên Chỉ huy Thiêm sự ở các vệ Hiệu Lực, Thần Võ,Điện Tiền+các viên Thiêm Tổng tri ở các vệ thuộc ngũ phủ và viên Tuyên úy Thiêm sự đều hàm Tùng Tứ phẩm.
Những người giữ quan chức này:
về Văn giai thì sơ thụ là Triều liệt Đại phu, thăng thụ là Triều đoan Đại phu, gia thụ là Triều tĩnh Đại phu;
về Võ giai thì sơ thụ là Trì oai Tướng quân, thăng thụ là Bỉnh oai Tướng quân, gia thụ là Quảng oai Tướng quân.
5.a. Hàn lâm viện Thị độc+Thiêm Đô Ngự sử+Lục Tự khanh+Chiêm sự Viện chiêm sự+Thái y Viện đại sứ+Phủ doãn phủ Phụng Thiên+các viên Chỉ huy Thiêm sự ở các ti thuộc Vệ Cẩm y, Kim Ngô+Trấn điện tướng quân+Lực sĩ hiệu úy+các Viên Thiện hộ ở các ti Thần Oai Du Nỗ+các viên Phó Đô tri ở các vệ Tuần Tượng, Mã Nhàn+các viên Đô tri ở các vệ ngoại trấn+các viên Thống chế ở các vệ Thần Võ, Điện Tiền+các viên Chánh Đô úy ở các ti Tượng Cứu, Mã Cứu+các viên Quản lĩnh ngoại vệ thuộc ngũ phủ+viên Cung chính ở cung Thiên Hòa và quân dân Chiêu Thảo sứ đều hàm Chánh Ngũ phẩm.
Những người giữ quan chức này:
về Văn giai thì sơ thụ là Hoằng tín Đại phu, thăng thụ là Hoằng tri Đại phu, gia thụ là Hoằng nghĩa Đại phu;
về Võ giai thì sơ thụ là Kiện trung Tướng quân, thăng thụ là Quán trung Tướng quân, gia thụ là Bảo trung Tướng quân.
5.b. Hàn lâm viện Thị giảng+Đông các Học sĩ+Quốc Tử Giám Tư nghiệp+Thái y Viện Viện sứ+Tả Hữu thuyết thư+Chính truyến phó thông chính+Chiêm sự Viện Thiếu thiêm sự+các viên Đoán sự, Tham nghị ở hai ti Cẩm Y, Kim Ngô+Viên Phó Lực sĩ hiệu úy+các viên Phó Thiên hộ ở các ti Thần oai, Du Nỗ+các viên Trung úy ở vệ Thần Võ, Điện Tiền+Viên Lang tướng ở ti Trung thành binh mã+Viên Phó Quản lãnh ở ngoại vệ thuộc ngũ phủ+Viên Cung phó ở cung Thiên Hòa và quân dân Chiêu Thảo đồng tri đều hàm Tùng Ngũ phẩm.
Những người giữ quan chức này:
về Văn giai thì sơ thụ là Hiển cung Đại phu, thăng thụ là Hiển lượng Đại phu, gia thụ là Hiển huệ Đại phu;
về Võ giai thì sơ thụ là Tráng tiết Tướng quân, thăng thụ là Tận tiết Tướng quân, gia thụ là Kính tiết Tướng quân.
6.a Lang trung các ti ở lục bộ+Hàn lâm viện Thị thư+Đông các hiệu thư+Trung thư giám trung thư xá nhân+Thái y Viện ngự y chính+Tư thiên giám tư thiên lệnh+lục tự Thiếu khanh+Phụng Thiên phủ Thiếu doãn+Hiến Sát sứ+các viên Chánh Đề hạt, Phó đoán sự, Bá hộ ở các Viện Tuần tượng, Mã nhàn+các viên Phó Trung úy ở các vệ Thần Võ,Điện Tiền+Viên Phó lang tướng ở ti Trung thành binh mã+Viên Đô úy ở vệ Tượng cứu,Mã Cứu+Viên Chánh võ úy ở ngoại vệ thuộc ngũ phủ+Viên Cung thừa ở cung Thiên Hòa và quân dân chiêu thảo thiêm sự, Kinh lược sứ đều hàm Chánh Lục phẩm.
Những người giữ quan chức này,
về Văn giai thì sơ thụ là Mậu lâm lang, thăng thụ là Tuấn lâm lang, gia thụ là Đức lâm lang;
về Võ giai thì sơ thụ là Phấn lực Tướng quân, thăng thụ là Quả lực Tướng quân, gia thụ là Chấn lực Tướng quân.
6.b. Viên ngoại lang+Hàn lâm viện Đãi chế+Trung thư giám điển thư+Thái y Viện ngự y phó+tả, Hữu tư giảng+các viên Đề hạt các vệ Tuần Tượng, Mã Nhàn+Viên Thừa ti ở ti Thông Chính+Viên Tri phủ+các Viên Phó Lang tướng ở các vệ Tả, Hữu, Tiền,Hậu+Viên Võ úy ở ngoại vệ thuộc ngũ phủ+các viên Kinh lược sứ, Đồng tri, Phòng ngự sứ ở vệ Thành Môn+Viên Chính chưởng ở cung Thiên Hòa+Viên Sở sứ ở sáu sở thuộc Công bộ+các viên Cục sứ ở Thượng Y Giám, Ngự dụng giám và viên Thự chính ở Thái Quan thự đều hàm Tùng Lục phẩm.
Những người giữ quan chức này:
về Văn giai thì sơ thụ là Mậu lâm tá lang, thăng thụ là Tuân lâm tá lang, gia thụ là Đức lâm tá lang;
về Võ giai thì sơ thụ là Quả cảm Tướng quân, thăng thụ là Hùng cảm Tướng quân, gia thụ là Cường cảm Tướng quân.
7.a. Hàn lâm viện Hiệu lý, Đãi chiếu+Đề hình Giám sát Ngự sử+Trung thư giám chính tự+Tự thừa ở sáu tự+Thái y viện Biện kiểm+tư thiên giám giám phó+Huyện úy ở hai huyện Vĩnh Xương, Quảng Đức+Đô Cấp sự trung ở sáu khoa+Trưởng sử ở ti Kinh Cục,Tẩy mã sở và các phủ+Hiến sát Phó sứ+Đồng Tri phủ+Phó Đề hạt ở các vệ Tuần Tượng,Mã Nhàn+Phó Đô úy ở Tượng Cứu, Mã Cứu+Phó võ úy, Phó Vệ úy ở ngoại vệ thuộc ngũ phủ+Kinh Lược+Chiêm sự+Phòng ngữ đồng tri+phó chưởng cung Thiên Hòa+sở phó sứ ở sáu sở trong Công bộ và Thự phó ở Thái quan thự, đều hàm Chánh Thất phẩm.
Những người giữ chức này:
sơ thụ là Cần sự lang, thăng thụ là Kính sự lang, gia thụ là Thừa sự lang.
7.b. Hàn lâm viện Kiểm thảo+Thông phán hai huyện Vĩnh Xương, Quảng Đức+điên hàn cục Ti Kinh+giữ ngục ti Điện Tiền+tri huyện +Tri châu+phòng ngữ thiêm sự+sở thừa sáu sở thuộc Công bộ và Thự thừa ở thự Thái Quan, đều hàm Tùng Thất phẩm.
Những người giữ chức này, sơ thụ là Cân sự tá lang, thăng thụ là Kinh sự tá lang, gia thụ là Thừa sự tá lang.
8.a. Sử quán Tu soạn+Tư huấn Chiêu Văn quán, Tú lâm cục+ngũ kinh giáo thụ ở Quốc Tử Giám+giám thừa ở Tư thiên giám cập sự trung ở sáu khoa+ngục thừa ở ti Điện Tiền+cục chính ở cục Thừa Dụ+phụ Đạo chúnh ở ti Man Di phụ Đạo+ti chính ở ti GiáoPhường+bào chính ở các thự Thần Trù, Thái Quan, Lam Kinh+cục chính ở các giám Tuyên Đạt, Thượng Y, Ngự Dụng và thự chính ở các thự, đều hàm Chánh Bát phẩm.
Những người giữ chức này, sơ thụ là Tiến công lang, thăng thụ là Hiệu công lang, gia thụ là Địch công lang.
8.b Lục bộ tư vụ, Sử quán biên lục, viên Chiếu ma ở Ngự sử đài, viên Điển nghĩa ở Sùng Văn Quán và Tú Lâm cục+viên Sứ ti ở Cáp Môn và ti Lam Kinh+Viên Giám bạ ở Ngũ Kinh Học chính+Viên Bình sự ở Đại Lý tự+Khố sứ ở các kho Thiện Hội trung, Thiệu Hội đông, Thiệu Hội Tây, Thiện Hội nam, Thiện Hội bắc, và Trúc Mộc, Tang Phạt, Thiên Oai, Trừ Phong+Thông Sự chính+ngũ quan chính ở Tư Thiên giám+Viên Đường sứ ở Tế Sinh đường+Viên Trị trung ở phủ Phụng Thiên+Viên Điển sứ ở ti Thông Chính sứ+Viên Điển sứ ở Viện Chiêm Sự+Viên Bạn độc ở các phủ thân vương công+Phủ úy, Vệ úy+Lương y chính ở các Vệ Cẩm y, Kim Ngô, Hiệu Lực, Thần Võ và Điện Tiền+lục sự ở các vệ Thần Võ, Hiệu Lực và Điện Tiền+Đô sự ở các ti Thần Oai, Du Nỗ và Trung Thành+kinh lịch trong ngũ phủ+điển bạ ở các vệ trong ngũ phủ+tri bạ ở các vệ Thần Võ, Hiệu Lực, Điện Tiền, Tượng Cứu, Mã Cứu, Tuần Tượng, Mã Nhàn+Đô Quan+chủ sự+suy quan+Huyện thừa+đồng tri châu+cục phó trong cục thừa dụ+giữ ngục ở ngục sở Ngũ Hình+Phụ Đạo phó+Ti Phó trong ti giáo phường+Bào Phó ở các thự Thần Trù, Thái Quan, Lam Kinh+ti uấn ở ti Lương Uấn+Cục chính ở cục Ưng Sự+Sở sứ ở các sở Đồn Điền+sở sứ ở các sở Tàm Tang+Ti sứ ở ti Tinh Mễ+cục phó ở các giám, Tuyên Đạt, Thượng Y, Ngư Dụng+Tượng phó ở sáu sở trong Công bộ+Ti chính ở ti Điển Cứu+cục chính ở các cục Chưởng Liễn, Điển Tàng, Trân Tu, Công Tác, đều hàm Tùng Bát phẩm.
Những người giữ chức này, sơ thụ là Tiến công thứ lang, thăng thụ là Hiệu công thứ lang, gia thụ là Địch công thứ lang.
9.a. Phó Sứ ở kho+Kiểm hiệu ở Tông Nhân phủ+Hồng Lô tự ban+Thông sự phó ở bộ phận Lão Qua, Bắc và Chiêm+khán chẩn ở Tế Sinh đường+khố sứ ở kho Sinh Dược+tư thần lang ởTư Thiên Giám+huấn Đạo chủ bạ, Tư nghị ở phủ Phụng Thiên và các phủ khác+Thiện y chính giảng dụ, khổng mực lương y ở sở Thiện Y+phó sứ cáp môn+Tri sự ở sơn lăng Lam Kinh++Ngục thừa ở ngục sở trong ti ngũ hình+ngục thừa ở sở án ngục trong Ngự Sử đài+Điển Thiện trong sở Điển Thiện+tuần kiểm sứ+cục chính trong cục Thị Vệ+thự chính trong thự Đồng Văn nhã nhạc+cục phó ở cục Lương Uẩn+cục phó ở cục Ứng sự+phó sứ các sở đồn điền và tàm tang+sở sứ ở sở trồng rau+sở chính ở sở Bách Hí tả, Hữu+tăng thống ở ti Tăng Lục+Đạo thống ở ti Đạo Lục+sở sứ ở các sở Điền Mục+trưởng quan ở ti Man Di trưởng quan+cục phó ở các cục Chưởng Liễn, Điển Tàng, Trân Tu, Công Tác, đều hàm Chánh Cửu phẩm.
Những người giữ chức này, sơ thụ là Tương sĩ lang, thăng thụ là Đăng sĩ lang, gia thụ là Lập sĩ lang.
9.b. Điên thụ+phó sứ các sở+ti sứ ở ti Thị Mãi+các viên thuê sứ+trưởng đò ở các ti bến đò+trưởng Thị ở các chợ+xiển giáo giác nghĩa trong ti Tăng lục+điển pháp Huy nghĩa trong ty Đạo lục+dịch thừa và phố chính ở quán sứ hội đồng+đàn sư ở các đàn+từ thừa ở các đền+huấn khoa ở y học+Khuyến nông sứ ở các phủ+hà đê sứ các phủ+thự chính và tăng, Đạo chính ở các chùa+quán sứ ở các quán+phó trưởng quan ở ti Man Di trưởng quan, đều hàm Tùng Cửu phẩm.
Các người giữ chức này, sơ thụ là Tương sĩ thứ lang, thăng thụ là Đăng sĩ thứ lang, gia thụ là Lập sĩ thứ lang.
5.Chế độ về quan chức ở Nội điện:
Nội quan và tản quan:
Thị trung lệnh hàm chánh tam phẩm,
Phó Thị trung lệnh hàm tùng tam phẩm;
Bật trực lệnh hàm chánh tứ phẩm,
Phó bật trực lệnh hàm tùng tứ phẩm;
Hiệp vịnh lệnh hàm chánh ngũ phẩm,
Phó hiệp vịnh hàm tùng ngũ phẩm;
Sùng liêm chính hàm chánh lục phẩm,
Phó sùng liêm chính hàm tùng lục phẩm;
Thuần lương chính hàm chánh thất phẩm,
Phó Thuần lương chính hàm tùng thất phẩm;
Sức tu chính hàm chánh bát phẩm,
Phó sức tu chính hàm tùng bát phẩm;
Lịch sử chính hàm chánh cửu phẩm,
Phó lịch sử chính hàm tùng cửu phẩm.
6.Bầy tôi có công được Vinh thăng,đặc ân gia phong những chữ đẹp đẽ:
Bao gồm 24 chữ/ thuộc 24 bậc:
Suy trung 2 Dực vận 3 Tá lý 4 Cần lễ
5 Tán trị 6 Dương võ 7 Kính thân 8 Minh Nghĩa
9 Trinh y 10 Phụ quốc 11 Hiệp mưu 12 Đồng đức
13 Khiêm cung 14 Đoan nhã 15 Kiệt tiết 16 Tránh liệt
17 Uy dũng 18 Cương chính 19 Bình Văn 20 Hiệu thuận
21 Thuần tín 22 Đôn hậu 23 Tĩnh nan 24 Tuyên lực
Sơ phong hoặc gia phong từ 2 đến 8 chữ do Nhà Vua quyết định
5.a. Hàn lâm viện Thị độc+Thiêm Đô Ngự sử+Lục Tự khanh+Chiêm sự Viện chiêm sự+Thái y Viện đại sứ+Phủ doãn phủ Phụng Thiên+các viên Chỉ huy Thiêm sự ở các ti thuộc Vệ Cẩm y, Kim Ngô+Trấn điện tướng quân+Lực sĩ hiệu úy+các Viên Thiện hộ ở các ti Thần Oai Du Nỗ+các viên Phó Đô tri ở các vệ Tuần Tượng, Mã Nhàn+các viên Đô tri ở các vệ ngoại trấn+các viên Thống chế ở các vệ Thần Võ, Điện Tiền+các viên Chánh Đô úy ở các ti Tượng Cứu, Mã Cứu+các viên Quản lĩnh ngoại vệ thuộc ngũ phủ+viên Cung chính ở cung Thiên Hòa và quân dân Chiêu Thảo sứ đều hàm Chánh Ngũ phẩm.
Những người giữ quan chức này:
về Văn giai thì sơ thụ là Hoằng tín Đại phu, thăng thụ là Hoằng tri Đại phu, gia thụ là Hoằng nghĩa Đại phu;
về Võ giai thì sơ thụ là Kiện trung Tướng quân, thăng thụ là Quán trung Tướng quân, gia thụ là Bảo trung Tướng quân.
5.b. Hàn lâm viện Thị giảng+Đông các Học sĩ+Quốc Tử Giám Tư nghiệp+Thái y Viện Viện sứ+Tả Hữu thuyết thư+Chính truyến phó thông chính+Chiêm sự Viện Thiếu thiêm sự+các viên Đoán sự, Tham nghị ở hai ti Cẩm Y, Kim Ngô+Viên Phó Lực sĩ hiệu úy+các viên Phó Thiên hộ ở các ti Thần oai, Du Nỗ+các viên Trung úy ở vệ Thần Võ, Điện Tiền+Viên Lang tướng ở ti Trung thành binh mã+Viên Phó Quản lãnh ở ngoại vệ thuộc ngũ phủ+Viên Cung phó ở cung Thiên Hòa và quân dân Chiêu Thảo đồng tri đều hàm Tùng Ngũ phẩm.
Những người giữ quan chức này:
về Văn giai thì sơ thụ là Hiển cung Đại phu, thăng thụ là Hiển lượng Đại phu, gia thụ là Hiển huệ Đại phu;
về Võ giai thì sơ thụ là Tráng tiết Tướng quân, thăng thụ là Tận tiết Tướng quân, gia thụ là Kính tiết Tướng quân.
6.a Lang trung các ti ở lục bộ+Hàn lâm viện Thị thư+Đông các hiệu thư+Trung thư giám trung thư xá nhân+Thái y Viện ngự y chính+Tư thiên giám tư thiên lệnh+lục tự Thiếu khanh+Phụng Thiên phủ Thiếu doãn+Hiến Sát sứ+các viên Chánh Đề hạt, Phó đoán sự, Bá hộ ở các Viện Tuần tượng, Mã nhàn+các viên Phó Trung úy ở các vệ Thần Võ,Điện Tiền+Viên Phó lang tướng ở ti Trung thành binh mã+Viên Đô úy ở vệ Tượng cứu,Mã Cứu+Viên Chánh võ úy ở ngoại vệ thuộc ngũ phủ+Viên Cung thừa ở cung Thiên Hòa và quân dân chiêu thảo thiêm sự, Kinh lược sứ đều hàm Chánh Lục phẩm.
Những người giữ quan chức này,
về Văn giai thì sơ thụ là Mậu lâm lang, thăng thụ là Tuấn lâm lang, gia thụ là Đức lâm lang;
về Võ giai thì sơ thụ là Phấn lực Tướng quân, thăng thụ là Quả lực Tướng quân, gia thụ là Chấn lực Tướng quân.
6.b. Viên ngoại lang+Hàn lâm viện Đãi chế+Trung thư giám điển thư+Thái y Viện ngự y phó+tả, Hữu tư giảng+các viên Đề hạt các vệ Tuần Tượng, Mã Nhàn+Viên Thừa ti ở ti Thông Chính+Viên Tri phủ+các Viên Phó Lang tướng ở các vệ Tả, Hữu, Tiền,Hậu+Viên Võ úy ở ngoại vệ thuộc ngũ phủ+các viên Kinh lược sứ, Đồng tri, Phòng ngự sứ ở vệ Thành Môn+Viên Chính chưởng ở cung Thiên Hòa+Viên Sở sứ ở sáu sở thuộc Công bộ+các viên Cục sứ ở Thượng Y Giám, Ngự dụng giám và viên Thự chính ở Thái Quan thự đều hàm Tùng Lục phẩm.
Những người giữ quan chức này:
về Văn giai thì sơ thụ là Mậu lâm tá lang, thăng thụ là Tuân lâm tá lang, gia thụ là Đức lâm tá lang;
về Võ giai thì sơ thụ là Quả cảm Tướng quân, thăng thụ là Hùng cảm Tướng quân, gia thụ là Cường cảm Tướng quân.
7.a. Hàn lâm viện Hiệu lý, Đãi chiếu+Đề hình Giám sát Ngự sử+Trung thư giám chính tự+Tự thừa ở sáu tự+Thái y viện Biện kiểm+tư thiên giám giám phó+Huyện úy ở hai huyện Vĩnh Xương, Quảng Đức+Đô Cấp sự trung ở sáu khoa+Trưởng sử ở ti Kinh Cục,Tẩy mã sở và các phủ+Hiến sát Phó sứ+Đồng Tri phủ+Phó Đề hạt ở các vệ Tuần Tượng,Mã Nhàn+Phó Đô úy ở Tượng Cứu, Mã Cứu+Phó võ úy, Phó Vệ úy ở ngoại vệ thuộc ngũ phủ+Kinh Lược+Chiêm sự+Phòng ngữ đồng tri+phó chưởng cung Thiên Hòa+sở phó sứ ở sáu sở trong Công bộ và Thự phó ở Thái quan thự, đều hàm Chánh Thất phẩm.
Những người giữ chức này:
sơ thụ là Cần sự lang, thăng thụ là Kính sự lang, gia thụ là Thừa sự lang.
7.b. Hàn lâm viện Kiểm thảo+Thông phán hai huyện Vĩnh Xương, Quảng Đức+điên hàn cục Ti Kinh+giữ ngục ti Điện Tiền+tri huyện +Tri châu+phòng ngữ thiêm sự+sở thừa sáu sở thuộc Công bộ và Thự thừa ở thự Thái Quan, đều hàm Tùng Thất phẩm.
Những người giữ chức này, sơ thụ là Cân sự tá lang, thăng thụ là Kinh sự tá lang, gia thụ là Thừa sự tá lang.
8.a. Sử quán Tu soạn+Tư huấn Chiêu Văn quán, Tú lâm cục+ngũ kinh giáo thụ ở Quốc Tử Giám+giám thừa ở Tư thiên giám cập sự trung ở sáu khoa+ngục thừa ở ti Điện Tiền+cục chính ở cục Thừa Dụ+phụ Đạo chúnh ở ti Man Di phụ Đạo+ti chính ở ti GiáoPhường+bào chính ở các thự Thần Trù, Thái Quan, Lam Kinh+cục chính ở các giám Tuyên Đạt, Thượng Y, Ngự Dụng và thự chính ở các thự, đều hàm Chánh Bát phẩm.
Những người giữ chức này, sơ thụ là Tiến công lang, thăng thụ là Hiệu công lang, gia thụ là Địch công lang.
8.b Lục bộ tư vụ, Sử quán biên lục, viên Chiếu ma ở Ngự sử đài, viên Điển nghĩa ở Sùng Văn Quán và Tú Lâm cục+viên Sứ ti ở Cáp Môn và ti Lam Kinh+Viên Giám bạ ở Ngũ Kinh Học chính+Viên Bình sự ở Đại Lý tự+Khố sứ ở các kho Thiện Hội trung, Thiệu Hội đông, Thiệu Hội Tây, Thiện Hội nam, Thiện Hội bắc, và Trúc Mộc, Tang Phạt, Thiên Oai, Trừ Phong+Thông Sự chính+ngũ quan chính ở Tư Thiên giám+Viên Đường sứ ở Tế Sinh đường+Viên Trị trung ở phủ Phụng Thiên+Viên Điển sứ ở ti Thông Chính sứ+Viên Điển sứ ở Viện Chiêm Sự+Viên Bạn độc ở các phủ thân vương công+Phủ úy, Vệ úy+Lương y chính ở các Vệ Cẩm y, Kim Ngô, Hiệu Lực, Thần Võ và Điện Tiền+lục sự ở các vệ Thần Võ, Hiệu Lực và Điện Tiền+Đô sự ở các ti Thần Oai, Du Nỗ và Trung Thành+kinh lịch trong ngũ phủ+điển bạ ở các vệ trong ngũ phủ+tri bạ ở các vệ Thần Võ, Hiệu Lực, Điện Tiền, Tượng Cứu, Mã Cứu, Tuần Tượng, Mã Nhàn+Đô Quan+chủ sự+suy quan+Huyện thừa+đồng tri châu+cục phó trong cục thừa dụ+giữ ngục ở ngục sở Ngũ Hình+Phụ Đạo phó+Ti Phó trong ti giáo phường+Bào Phó ở các thự Thần Trù, Thái Quan, Lam Kinh+ti uấn ở ti Lương Uấn+Cục chính ở cục Ưng Sự+Sở sứ ở các sở Đồn Điền+sở sứ ở các sở Tàm Tang+Ti sứ ở ti Tinh Mễ+cục phó ở các giám, Tuyên Đạt, Thượng Y, Ngư Dụng+Tượng phó ở sáu sở trong Công bộ+Ti chính ở ti Điển Cứu+cục chính ở các cục Chưởng Liễn, Điển Tàng, Trân Tu, Công Tác, đều hàm Tùng Bát phẩm.
Những người giữ chức này, sơ thụ là Tiến công thứ lang, thăng thụ là Hiệu công thứ lang, gia thụ là Địch công thứ lang.
9.a. Phó Sứ ở kho+Kiểm hiệu ở Tông Nhân phủ+Hồng Lô tự ban+Thông sự phó ở bộ phận Lão Qua, Bắc và Chiêm+khán chẩn ở Tế Sinh đường+khố sứ ở kho Sinh Dược+tư thần lang ởTư Thiên Giám+huấn Đạo chủ bạ, Tư nghị ở phủ Phụng Thiên và các phủ khác+Thiện y chính giảng dụ, khổng mực lương y ở sở Thiện Y+phó sứ cáp môn+Tri sự ở sơn lăng Lam Kinh++Ngục thừa ở ngục sở trong ti ngũ hình+ngục thừa ở sở án ngục trong Ngự Sử đài+Điển Thiện trong sở Điển Thiện+tuần kiểm sứ+cục chính trong cục Thị Vệ+thự chính trong thự Đồng Văn nhã nhạc+cục phó ở cục Lương Uẩn+cục phó ở cục Ứng sự+phó sứ các sở đồn điền và tàm tang+sở sứ ở sở trồng rau+sở chính ở sở Bách Hí tả, Hữu+tăng thống ở ti Tăng Lục+Đạo thống ở ti Đạo Lục+sở sứ ở các sở Điền Mục+trưởng quan ở ti Man Di trưởng quan+cục phó ở các cục Chưởng Liễn, Điển Tàng, Trân Tu, Công Tác, đều hàm Chánh Cửu phẩm.
Những người giữ chức này, sơ thụ là Tương sĩ lang, thăng thụ là Đăng sĩ lang, gia thụ là Lập sĩ lang.
9.b. Điên thụ+phó sứ các sở+ti sứ ở ti Thị Mãi+các viên thuê sứ+trưởng đò ở các ti bến đò+trưởng Thị ở các chợ+xiển giáo giác nghĩa trong ti Tăng lục+điển pháp Huy nghĩa trong ty Đạo lục+dịch thừa và phố chính ở quán sứ hội đồng+đàn sư ở các đàn+từ thừa ở các đền+huấn khoa ở y học+Khuyến nông sứ ở các phủ+hà đê sứ các phủ+thự chính và tăng, Đạo chính ở các chùa+quán sứ ở các quán+phó trưởng quan ở ti Man Di trưởng quan, đều hàm Tùng Cửu phẩm.
Các người giữ chức này, sơ thụ là Tương sĩ thứ lang, thăng thụ là Đăng sĩ thứ lang, gia thụ là Lập sĩ thứ lang.
5.Chế độ về quan chức ở Nội điện:
Nội quan và tản quan:
Thị trung lệnh hàm chánh tam phẩm,
Phó Thị trung lệnh hàm tùng tam phẩm;
Bật trực lệnh hàm chánh tứ phẩm,
Phó bật trực lệnh hàm tùng tứ phẩm;
Hiệp vịnh lệnh hàm chánh ngũ phẩm,
Phó hiệp vịnh hàm tùng ngũ phẩm;
Sùng liêm chính hàm chánh lục phẩm,
Phó sùng liêm chính hàm tùng lục phẩm;
Thuần lương chính hàm chánh thất phẩm,
Phó Thuần lương chính hàm tùng thất phẩm;
Sức tu chính hàm chánh bát phẩm,
Phó sức tu chính hàm tùng bát phẩm;
Lịch sử chính hàm chánh cửu phẩm,
Phó lịch sử chính hàm tùng cửu phẩm.
6.Bầy tôi có công được Vinh thăng,đặc ân gia phong những chữ đẹp đẽ:
Bao gồm 24 chữ/ thuộc 24 bậc:
Suy trung 2 Dực vận 3 Tá lý 4 Cần lễ
5 Tán trị 6 Dương võ 7 Kính thân 8 Minh Nghĩa
9 Trinh y 10 Phụ quốc 11 Hiệp mưu 12 Đồng đức
13 Khiêm cung 14 Đoan nhã 15 Kiệt tiết 16 Tránh liệt
17 Uy dũng 18 Cương chính 19 Bình Văn 20 Hiệu thuận
21 Thuần tín 22 Đôn hậu 23 Tĩnh nan 24 Tuyên lực
Sơ phong hoặc gia phong từ 2 đến 8 chữ do Nhà Vua quyết định
-----
Án sát: Tháng 6 năm Hồng Đức thứ 2 (1471), đặt chức Án sát ở 12 Thừa tuyên và đặt bat y (tức Đô ty, Thừa ty, Hiến ty) ở Quảng Nam. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) quy định Án sát dưới quyền Tổng đốc, Tuần phủ. Ty Án sát sứ các tỉnh có Thông phán, Kinh lịch, bát cửu phẩm Thư lại, Vị nhập lưu thư lại. Số lượng nhiều ít tuỳ theo từng tỉnh.
Ở các tỉnh nhỏ chỉ có Tuần vũ thì Án sát giữ vị trí tỉnh Phó giữ việc hình. Thời Tự Đức (1848-1883) Án sát coi như tỉnh Phó của tỉnh nhỏ.
Án sát sứ ty: là cơ quan phụ trách việc hình thời Nguyễn. Là ty giúp việc cho Tổng đốc hoặc Tuần vũ.
Ấm chức: Theo Phan Huy Chú-Lịch triều hiến chương loại chí- Cấp bậc phong Ấm thực thi từ thời Trần Thánh Tông, năm Thiệu Phong thứ 10(1267). Lúc bấy giờ định lệ phong Ấm cho Tôn Thất. (Con cháu trước làm tới chức tước gì thì quy định ông cha được truy phong ở mức nào). Đến thời Lê, thời Lê Thánh Tông lệ phong Ấm được quy định khá chi tiết.
Ví dụ: Quận công thì cha và ông đều được phong tước hầu, mẹ và bà đều được phong Chánh phu nhân, vợ được phong Phu nhân, con trưởng được phong Triều liệt đại phu, các con được phong Hoằng tín đại phu, cháu trưởng được phong Hiển cung đại phu.
Tước hầu thì cha và ông đều được phong Bá, mẹ và bà đều được phong Tự Phu nhân, các con trưởng được phong Hoằng tín đại phu, các con được phong Hiển cung đại phu, cháu trưởng được phong Mậu lâm lang…
Đời Huyền Tông, năm Cảnh Trị thứ 2 (1664). chuẩn định cho công thần khai quốc từ Tam thái, Tam thiếu trở lên con cháu đời đời là công thần tôn; công thần trung hưng, thì từ Tả Hữu Đô đốc, Tả Hữu Thị Lang trở lên con cháu đời đời là quan viên tử.
Bá: Tước thứ 3 trong 5 tước thời phong kiến: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.
Từ thời Lý đã đặt ra tước: Tước Vương, tước công ban cho các thân vương của vua.
Đời Trần ngoài tước Vương còn ban tặng các tước khác như: Quốc, Công, Thượng Hầu, Quan nội hầu, Thượng phẩm, Quan phục hầu…
Đời Lê thế kỉ XV, Lê Lợi ban phong cho các tướng công thần các tước khác nhau như Á hầu, Thông hầu, Minh tự, Đại liêu ban…
Đời Lê Thánh Tông, năm Hồng Đức thứ 2 (1471) bắt đầu định quan chế và các tước; trong đó có 5 tước Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Các đời về sau vẫn dựa theo thể lệ đó; tuy nhiên cũng có sự thay đổi về việc ban, phong cho các công thần. Cũng theo quy chế thời Hồng Đức tước Quận công lấy tên phủ, huyện (1 chữ đầu) làm hiệu; tước Hầu, Bá lấy tên xã làm hiệu.
Ví dụ: Lương Xuyên Bá Vũ Yêm con trưởng cụ Vũ Cảo (chi IV).
Tước Tử, Nam lấy tên xã, cũng có khi lấy tên người được phong.
Ví dụ: Vũ Trung là con Vũ Phẩm, làm chức huyện thừa được phong Nhuận Trạch Nam.
Vũ Duy Thảo, con cụ Vũ Duy Liên, Học quan, làm Tham nghị xứ Kinh Bắc, tước Tham Trạch Tử…
Bảng nhãn: Từ năm Bính Ngọ (1246) đời Trần Thánh Tông (1225-1258) định ra Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám Hoa. Năm sau chính thức định là Tam khởi, Lê Thánh Tông, năm Nhâm Thìn (1472) cho đổi gọi Bảng nhãn là Đệ nhị giáp Tiến sĩ cập đệ- đệ nhị danh. Bảng nhãn tặng hàm tong lục phẩm, 7 tư. Nếu vào làm việc ở viện Hàn lâm thì thăng lên một cấp.
Bách hộ: Quan chế thời Hồng Đức, ban võ có chức Bách hộ, trật chánh lục phẩm.
Thời Nguyễn thế kỷ XIX, Bách hộ trở thành hư hàm; có thể mua được.
Binh bộ: Từ thời Lê Nghi Dân, năm Kỉ Mão (1459) bắt đầu đặt đủ 6 bộ trong đó có bộ Binh. Đến tháng 6 năm Ất Mão (1675) đời vua Lê Gia Tông định rõ chức việc của 6 bộ. Trong đó quy định bộ Binh giữ việc binh nhung.
Biên chế bộ Binh thời Nguyễn gồm có: 1 Thượng thư, 2 Tả lang, 5 Chủ sự, 10 chánh bát phẩm Thư lại, 10 chánh cửu bát phẩm Thư lại. Cơ quan thuộc bộ gồm 1 xứ Binh trực và 7 ty giữ các việc lien quan đến binh nhung.
Biện nghiệm: Theo Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử- chức Thái y biện nghiệm làm nhiệm vụ thăm khám cho người bệnh.
Bồi tụng : Là Á tướng, thứ bậc sau Tể tướng, từ thời Lê trung hưng thế kỉ XVII về sau chúa Trịnh nắm quyền mới đặt chức Bồi tụ phủ đường. Khi Lê Chiêu Thống lên ngôi năm Đinh Mùi (1787) đã bãi bỏ chức Bồi tụng mà lại đặt chức Tham tri như trước.
Cai hợp: Chức quan trong các phiên ở phủ chúa Trịnh.
Dưới thời các chúa Nguyễn là chức quan Tá nhị của 3 ty Xá sai, Lệnh sử và Tướng thần lại. Thời Minh Mạng (1829-1840) bỏ chức Cai hợp.
Cai tổng:Đơn vị hành chính tổng có thể xuất hiện vào thời Mạc, thế kỉ XVI. Tổng lớn hơn xã, một tổng có thể gồm từ 3 đến 5 xã. Cai tổng là người cai quản tổng đó. Quyền hạn của Cai tổng cũng tương tự như Chánh tổng thời Nguyễn (1802-1945)
Cẩm vệ y: Là cơ quan xét kiện thời Lê Thánh Tông. Về sau có sự thay đổi; theo Sử học bị khảo: Cấm quân 2 vệ Cẩm y và Kim ngô vệ nào cũng có Đô chỉ huy sứ, Thiêm tư, Trấn điện tướng quân, Lực sĩ hiệu uý, Đoán sự, Thiên hộ 5 sở Thiên hộ, Phó thiên hộ.
Lương y sở, Lương y chính lại thuộc về Cẩm y…
Cẩm vệ y thời Nguyễn gồm 10 đội túc trực; là thiên binh túc vệ vua (bảo vệ vua).
Công bộ thị lang: là chức phó của Công bộ thượng thư. Thời Nguyễn trong mỗi bộ đặt Tả hữu Tham tri, đứng dưới Thượng thư, Tả Hữu Thị Lang đứng hang thứ ba.
Cử nhân: học vị cấp cho người trúng tuyển kì thi Hương. Từ năm Giáp Thân (1404) Hồ Hán Thương định cách chức thi Cử nhân: Phép thi chia làm 4 kì, sau thêm kì thi viết chữ và tính (5 kì). Quân nhân, phường chèo, người có tội không được thi. Ai đỗ kì thi Hương được miễn lao dịch, miễn đi lính.
Đại lý tự: Là tên cơ quan. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) đổi đặt 6 Viện là 6 Tự. Trong đó có các chức Khanh, Thiếu Khanh, Thừa.
Nhà Nguyễn cũng đặt Đại lý tự. Năm Minh Mạng thứ 8 (1827) chuẩn định quan chế có Đại lý tự khanh, trật chánh tam phẩm. Đại lý tự thiếu khanh, trật chánh tứ phẩm. Viên ngoại lang 1 viên, chủ sự 2 viên, Tự vụ 2 viên, Bát cửu phẩm thư lại gồm 4 viên, vị nhập lưu Thư lại gồm 20 người. Đại lý tự cùng bộ Hình, Viện đô sát thành tam pháp ty xét việc hình án.
Đại lý tự khánh: Trưởng quan của Đại lý tự.
Đại tướng quân: Năm Bính Thân (1296) đời Trần lấy Phạm Ngũ Lão làm Hữu kim ngô vệ Đại tướng quân. Năm Ất Dậu (1405), thời Hồ Hán Thương, Đại tướng quân được giao trông coi các quân mới lập. Năm 1428, những vũ khí lớn cũng gọi là Đại tướng quân. Thời Nguyễn cũng dùng danh hiệu này.
Đại nguyên soái: Thời vua Lê-chúa Trịnh, năm Kỉ Hợi (1599) chúa Trịnh Tùng tự phong Đô nguyên soái-Đại nguyên soái. Năm Mậu Thân (1668) Trịnh Tạc cũng tự phong Đại nguyên soái thượng sư thái phụ Tây Vương.
Điển bạ: Năm Minh mạng thứ 8 (1827) đặt chức Điển bạ trong Quốc Tử Giám, trật tòng bát phẩm.
Đề lại:Danh chức lại viên định năm Đinh Dậu (1477) quy định: Lại viên các nha môn ở trong không có xuất thân khi mới bổ sung cho làm Thông lại, sau 6 năm thăng làm Đề lại. Năm Gia Long thứ nhất (1802) mỗi phủ nha đặt 2 đề lại, 8 Thông lại; trật chánh cửu phẩm văn ban.
Cấp sự trung: Trong sáu khoa đặt từ thời Lê Nghi Dân có các chức Đô cấp sự trung, Cấp sự trung, trật chánh thất phẩm, bát phẩm.
Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), đặt chức Chưởng ấn Cấp sự trung, trật tòng tứ phẩm.
Câu kê:Là chức quan trong các phiên của phủ chúa, đứng dưới chức Thiêm tri phiên. Trật chánh thất phẩm. Thời các chúa Nguyễn chức Câu kê có thay đổi.
Chỉ huy sứ ty: Là chức quan Võ thời Nguyễn thuộc vệ Cẩm y, chỉ huy các đội thường trực và ty trấn phủ, trật chánh tam phẩm võ ban.
Chính tự. Theo quan chế thời Bảo Thái, Trung thư giám Chính tự trật chánh thất phẩm. Thời Nguyễn quan Chính tự làm nhiệm vụ dạy học. Lấy Hàn lâm viện Kiểm thảo, Đãi chiếu sung vào
Chiêu văn quán, Tú lâm cục: Theo Phạm Đình Hổ, thời Hồng Đức (1470-1497) đặt ra Sùng văn quán, Tú lâm cục. Con của các quan ở ban văn từ tam phẩm trở lên, được bổ làm học sinh Sùng văn quán. Con các quan từ ngũ phẩm tr?lên được bổ làm học sinh Tú lâm cục... nếu như nghiệp của họ không tinh, cho lui về làm quan viên tử.
Đến thời hậu Lê (từ Lê Trang Tông 1533-1548) trở đi đổi Sùng văn quán làm Chiêu văn quán, con các quan ở phẩm hàm cuối gọi là Tú lâm cục.
Công bộ : Là một trong sáu bộ, đặt từ thời Lê Nghi Dân. Công bộ đảm trách việc xây dựng thành hào, cầu cống, đường xá, tu sửa, xây dựng nhà sở; thi hành lệnh cấm về núi rừng, vườn tược, sông.
Biên chế Công bộ thời Nguyễn gồm: 1 Thượng thư, 2 Tả Hữu Tham tri, 2 Tả Hữu Thị lang, 3 Lang trung, 3 Viên ngoại, 4 Chủ sự, 4 Tư vụ, 8 chánh bát phẩm Thư lại.
Công bộ Thượng thư: Quan đứng đầu bộ Công, theo quan chế thời Hồng Đức và Bảo Thái cho hàm tòng nhị phẩm; thời Nguyễn cho hàm Chánh nhị phẩm, thuộc hàng Chánh khanh.
Đề điệu: Tên chức quan. Trong các kỳ thi Hội thời Lê có một quan đứng đầu trường thi (Chánh chủ khảo) là Đề điệu. Chức này thường dùng đại thần không kể quan văn hay võ. Thời Nguyễn nó dùng chức Đề điệu, thường củ người có khoa bảng giữ chức
Đô ngự sử:Thời Lê Thái Tổ theo quan chế thời Trần, đặt Ngự sử đài có các chức Thị ngự sử, Ngự sử trung thừa, Phó trung thừa, Giám sát ngư sử, Chủ bạ; sau đặt Đô ngự Sử, Phó đô ngự sử, Thiêm đô ngự sử cùng trưởng quan là Ngự sử đại phu. Đô ngư sử giữ phong hóa pháp độ, chức rất trọng. Thời Nguyễn chức quan đứng đầu Đô sát viện trật chánh nhị phẩm văn ban.
Đô đốc : Thời Quang Thái nhà Trần đặt chức Đô đốc ở các bộ. Năm Tân Ty (1461) bổ dụng Lê Lộng làm Đô đốc bình chương quân quốc trọng sự. Đô đốc kiêm chức Tế tướng. Năm Bính Tuất (1466) bắt đầu đặt quân 5 phủ: Trung quân phủ, Đông quân phủ, Tây quân phủ, Nam quân phủ, Bắc quân phủ. Gọi là ngũ quân Đô đốc phủ. Có các chức Tả Hữu Đô đốc, Đô đốc đồng tri, Đô đốc thiêm sự chuyển giữ việc quân. Quan chế thời Hồng Đức cho Tả Hữu Đô đốc trật tòng nhất phẩm.
Đô đốc phủ: Năm Đinh Sửu (1397) định lại quy chế về quan ngoài cấp bộ đặt phủ Đô đốc để trông coi.
Đô lại: Danh chức này định ra từ năm Đinh Dậu (1477). Thư lại sau 3 năm làm việc sung làm Đại lại, tiếp theo 3 năm nữa thăng là Điển lại, 3 năm nữa không phạm lỗi gì sẽ được thăng Đô Đạo các Thừa lệnh sở ở các nha phủ làm việc Bầu 3 năm thì thăng Đô lại
Đốc đồng:Theo Phan Huy Chú chức Đốc đồng đặt ra từ thời Lê trung hưng. ở các trấn đặt chức Đốc đồng; khám xét việc kiện cáo Chức Đốc đồng dùng quan tứ phẩm, ngũ phẩm trở xuống
Đồng tri phủ:Năm Bính Tuất (1466), bãi bỏ các lộ, trấn, đổi đặt là phủ. Đổi An phủ sứ làm Tri phủ. Trấn phủ sứ làm Đồng tri phủ. Theo quan chế thời Bảo Thái (1720-1729) Đồng tri phủ trật chánh thất phẩm.
Đông các hiệu thư:Theo quan chế thời Hồng Đức, năm Tân Mão (1471) đặt chức Đông các hiệu thư, trật chánh lục phẩm; vinh phong Mậu lâm lang ngang với Hàn lâm viện Thị thư.
Đồng tri châu: Thời Hồng Đửc đổi trấn làm châu, đổi Phòng ngụ làm Tri châu, Đồng Tri châu là Phó của Tri châu, cùng cai quản một châu. Quan chế thời Bảo Thái cho trật tòng bát phẩm.
Đốc học: Là Học quan cấp tỉnh thời Nguyễn. Năm Minh Mạng thứ 4 (1823) đặt chức Phó Đốc học ở một số nơi.
Đội trưởng: Tổ chức quân đội thời Nguyễn chia mỗi đội thành 50 người, đặt Cai đội 1 người, Đội trưởng và Ngoại uỷ Đội trưởng 2 người. Đội trưởng quân ở các tỉnh trật tòng thất phẩm.
Đồn điền sở. Lập sở đồn điền từ năm Tân Sửu (1481). Sở này có chức năng quản lý việc làm ruộng. Trưởng quan là Đồn điền sứ.
Đồn điền sở phó sứ. Là chức phó của Đồn điền sở sứ thời Lê.
Giáp: Là tổ chức quần chúng tự nguyện tập hợp những người đàn ông trong một làng, cùng lo việc tế thần và giúp nhau trong cuộc sống. Giáp có một Giáp trưởng do cả Giáp bầu ra. Giáp thường đặt tên theo phương hướng, theo số thứ tự, theo tên chữ. Giáp xuất hiện từ thời Hồng Đửc, nửa sau thế kỷ XV.
Giải nguyên.Người đỗ đầu trong kỳ thi Hương thời Nguyễn.
Giảng dụ: Là chức quan giảng dạy trong cung thời Bảo Thái, trật chánh cửu phẩm.
Giám sát ngự sử: Theo Phan Huy Chú: Thời Lê Thánh Tông đặt chức Giám sát ngự sử và 13 Giám sát ngự sử ở các đạo. Thời Lê trung hưng về sau theo đó không đổi. Ngự sử đài trông coi công việc của Ngụ sử 13 đạo. Giám sát ngự sử 13 đạo trật chánh thất phẩm.
Giám sinh: Là học sinh Quốc Tử Giám, đặt ra từ thời Lê. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục: Người nào thi Hương trúng 4 kỳ được sung vào học tại Quốc Tử Giám. Giám sinh chia làm 3 xá: Thượng xá sinh, trung xá sinh, hạ xá sinh. Thời Nguyễn những học sinh đã đỗ Cử nhân, chuẩn bị thi Hội được vào học ở Quốc Tử Giám.
Hàn lâm viện: Là tên cơ quan. Từ thời Lý đã đặt Hàn lâm viện và đặt chức Học sĩ. Nhà Lê cũng noi theo thời Lý-Trần đặt Hàn lâm viện có chức Phụng chỉ, Thị độc, Thị giảng, Trực học sĩ, Tri chế cáo, Đãi chế, Hiệu điểm. Sau lại đặt Đại học sĩ. Thời Lê Thánh Tông bỏ Đại học sĩ đặt Thừa chỉ, Thị độc, Thị giảng, Thị thư, Đãi chế, Hiệu lý, Tu soạn, Kiểm thảo, trật từ chánh tứ phẩm trở xuống. Nhà Nguyễn vẫn đặt Hàn lâm viện, tuy có thay đổi một số chức trong đó: Hàn lâm viện Chưởng viện học sĩ, Trực học sĩ, trật Chánh tam phẩm. Hàn lâm viện Thị độc học sĩ chánh tử phẩm trở xuống.
Hàn lâm viên biên tu:Chức này trong Viện Hàn lâm được đặt từ năm Minh Mạng thứ 8 (1827), trật chánh thất phẩm.
Hàn lâm viện Đãi chiếu: Nhà Lê đặt Hàn lâm, trong đó có chức Đãi chế. Nhà Nguyễn trong Viện Hàn lâm có chức thấp nhất tòng cửu phẩm gọi là Hàn lâm Đãi chiếu.
Hàn lâm viện Hiệu thảo: Theo quan chế thời Bảo Thái có chức Hàn lâm viện Hiệu thảo, trật tòng thất phẩm.
Hàn lâm viện Thị độc: Theo quan chế thời Hồng Đức, Hàn lâm viện Thị độc trật chánh ngũ phẩm. Thời Nguyễn cũng có chức quan Hàn lâm viện Thị độc.
Hình bộ Hữu Thị lang:Chức quan đứng hàng thứ ba trong bộ Hình thời Nguyễn, trật chánh tam phẩm. Thời Lê, Hữu Thị lang là chức phó của Thượng thư.
Hình bộ Tả Thị lang: Chức quan đứng thứ ba trong bộ Hình thời Nguyễn, trật chánh tam phẩm. ởthời Lê Tả Thị lang cũng là chức phó của Thượng thư.
Hình bộ Thượng thư: Là trưởng quan của bộ Hình. Theo quan chế thời Hồng Đức Thượng thư trật tòng nhị phẩm; thời Nguyễn chánh nhị phẩm.
Hiến sát sứ: Là trưởng quan của Hiến sát sứ ty. Theo quan chế thời Hồng Đức, chức Hiến sát sứ, Hiến sát phó sứ chức vụ là đàn hặc, xét hỏi, khám đoán, hội đồng kiểm soát, khảo khoá, tuần hành... Thời Bảo Thái, Hiến sát sứ hàm chánh lục phẩm.
Hiến sát phó sứ: Là chức quan thứ hai, sau Hiến sát sứ; theo quan chế thời Bảo Thái hàm chánh thất phẩm.
Hoàng giáp: Học vị gọi những người thi Đình đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân- đỗ thứ hai trong kỳ thi Đình.
Hộ bộ Hữu Thị lang: Chức quan dưới Thượng thư và Tham tri; có Tả, Hữu 2 người, trật chánh tam phẩm.
Hộ bộ Thượng thư: Trưởng quan của bộ Hộ, trật tòng nhị phẩm. Thời Nguyễn hàm chánh nhị phẩm.
Hoành từ khoa: Năm Đinh Hợi (1467) mở khoa Hoành từ để chọn nhân tài- văn hay học rộng. Quan từ tứ phẩm trở xuống đều được dự thi. Người nào trúng tuyển được vào học ở Bí thư giám.
Hội chủ: Người đứng chủ một hội như Hội thiện, Hội sãi vãi, thường làm các việc hưng công, trùng tu, xây dựng đình, chùa, quán... ở làng xã trước kia.
Hữu Thị lang: Là chức phó của Thượng thư thời Lê, trật tòng tam phẩm; có Tả, Hữu Thị lang. ởthời Nguyễn Tả, Hữu Thị lang đứng dưới chức Tả, Hữu Tham tri.
Hương cống: Học vị của người đỗ khoa thi năm Canh Thân (1740) thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738- 1765). Khoa thi này có 4 kỳ, ai đỗ kỳ thứ 4 gọi là Hương cống, sẽ được bổ làm Tri phủ, Tri huyện, Huấn đạo.
Huấn đạo phủ: Đạt từ thời Lê. Thời Nguyễn phủ nào có Tri phủ thì đặt Giáo thụ, có Đồng Tri phủ thì đặt Huấn đạo 1 người. Huyện cũng đặt 1 Huấn đạo. Châu sát biên giới không đặt chức này. Huấn đạo ở các huyện thời Nguyễn thường là chánh thất phẩm, tòng thất phẩm, hoặc chánh bát phẩm văn giai.
Huyện thừa: Thời Quang Thuận, năm Canh Thìn (1460) đổi chức Chuyển vận sứ làm Tri huyện, Tuần sát làm Huyện thừa. Thời Hồng Đức Huyện thừa trật tòng thất phẩm.
Khán thủ:Là chức việc hàng xã đặt từ thời Lê; có trách nhiệm đảm bảo an ninh trong làng xã, giống như chức Trương tuần thời Nguyễn.
Khoa Sĩ vọng: Theo Lê Quý Đôn – Kiến văn tiểu lục, thì khoa thi Sĩ vọng cũng gọi là khoa Hoành từ (xem khoa Hoành từ), chỉ có Cống sĩ mới được dự thi, nhằm cất nhắc những sĩ tử có danh tiếng mà lâu nay bị chìm đắm, chưa được trọng dụng. Khoa Sĩ vọng đặt ra từ tháng 8 năm ất Sửu (1625).
Khoá sinh: Là học trò thi trúng cách lần thứ hai ở huyện, trong những kỳ thi chọn người đi thi Hương.
Kỳ Anh quán:Là nơi tụ hội của các hưu quan làng Mộ Trạch để bình thơ, văn hoặc sát hạch học trò trước kỳ thi Hương.
Lại bộ: Đặt từ thời Lê Nghi Dân năm Kỷ Mão (1459); là một trong sáu bộ. Các quan gồm có Thượng thư (đúng đầu) Tả Hữu Thị lang, Lang trung, Viên ngoại lang, Tư vụ. Thời Nguyễn quan chức Lại bộ gồm : 1 Thượng thư, 2 Tả Hữu Tham tri, 2 Tả Hữu Thị lang, 3 Lang trung, 3 Viên ngoại lang, 4 Chủ cự, 4 Tư vụ, 8 bát phẩm Thư lại, 8 cửu phẩm Thư lại và 50 vị nhập lưu Thư lại.
Lại bộ Tả Thị lang: Theo quan chế Nguyễn, đó là chức quan đứng hàng thứ ba trong bộ Lại, trật chánh tam phẩm, ngang hàng với quan Hữu Thị lang.
Lang y (Lương y): Người làm nghề thày thuốc trong dân gian.
Lễ bộ Thượng thư: Quan đứng đầu bộ Lễ (một trong 6 bộ thời Lê). Thời Hồng Đức cho hàm nhị phẩm, thời Nguyễn hàm chánh nhị phẩm. Thời Lê năm ất Mão (1675), định rõ chức vụ của 6 bộ; bộ Lễ đảm trách giữ việc Lễ nghi tế tự, khánh tiết, yến tiệc, trường học thi cử, ấn tín, phù hiệu, áo mũ, chương tấu biểu văn, sứ thần cống nạp, các quan chào mừng, tư thiên giám, thuốc thang, bói toán, đạo lục, đồng văn nhã nhạc, giáo phường. Quan chế thời Nguyễn, biên chế gồm: 1 Thượng thư, 2 Tả Hữu Tham tri, 2 Tả Hữu Thị lang, 3 Lang trung, 3 Viên ngoại, 4 Chủ sự, 5 Tư vụ, 7 Viên chánh bát phẩm Thư lại, 8 viên chánh cửu phẩm Thư lại và 50 vị nhập lưu Thư lại.
Lệnh sử: Theo Lịch triều hiện chương loại chí: Lệnh sử được quyền khám hỏi các việc lặt vặt của các xã dân kiện nhau. Việc quan hệ đến hình luật thì do quan có thẩm quyền xét xử.
Lý trưởng: Người đứng đầu hàng xã, giống như Xã quan- Xã trưởng trước đây. Chức Lý trưởng được đặt ra từ thời Minh Mạng (1820-1840) là người đứng đầu chính quyền cấp cơ sở của chế độ phong kiến và thực dân sau này.
Nhiêu nam: Là danh hiệu đặt từ thời Lê để gọi nam giới ở trong các làng xã đã ở tuổi 55-60 (được miễn phu phen tạp dịch). Hoặc dùng để tặng những người có công bắt được trộm cướp ở làng, tuy chưa đến tuổi trên.
Nho sinh: Theo Cương mục: Con cháu các quan viên được sung vào học ở Chiêu văn quán, hoặc Tú lâm cục gọi là Nho sinh.
Nho sinh trúng thức: Thời Lê chia học trò làm hai hạng gồm: Nho sinh trúng thức, Giám sinh và Nho sinh, Sinh đồ; tuỳ theo tài đức của mỗi hạng mà bổ dụng.
Nhập nội hành khiển: Đặt từ thời Lý, chuyên dùng hoạn quan ở chức đó. Đời Trần thời Thiệu Phong (1341-1357) dùng người có văn học giữ chức Nhập nội hành khiển: Chức này đứng sau chức Tể tướng.
Phó bảng: Học vị được đặt thêm từ năm Minh Mạng thứ 10 (1829). Phó bảng xếp sau Tiến sĩ, không được dự thi Đình. Tên được ghi vào bảng đỏ, không được khắc vào bia đá.
Phó tổng: Cấp phó của Chánh tổng được đặt từ thời Gia Long (1802- 1819). Tổng gồm từ 3 đến 5, 6 xã, Chánh tổng đứng đầu tổng. Phó tổng phụ tá cho Chánh tổng, được trật tòng cửu phẩm võ giai.
Phó câu kê: Là chức quan trong các phiên của phủ chúa Trình, trật tòng thất phẩm.
Phó sở sứ: Chức quan phó quản lý các sở như các sở đồn điền, sở tầm tang, điển mục... Bách ký sở.
Pháp môn phù thuỷ: Là người hành nghề cúng bái, ma thuật.
Phủ doãn: Chức quan đặt thời Lê, cai quản phủ Phụng Thiên (tức kinh đô Thăng long ) trật chánh ngũ phẩm. Thời Nguyễn đặt Phủ doãn phủ Thừa Thiên, trật chánh tam phẩm.
Phụ quốc Thượng tướng: Đặt từ thời Lý. Lý Thường Kiệt được phong Phụ quốc Thượng tướng quân khai quốc công.
Quan sử- Sử quan, người làm công việc biên chép sử thời phong kiến.
Quản giáp: Nhà Lý chia đặt bình thành từng giáp, mỗi giáp gồm 15 người; đặt 1 người Quản giáp.
Quận công: Theo quan chế thời Hồng Đức- Quận công về văn ban ngang chánh thất phẩm, võ ban tương tự. Thời Nguyễn Quận công là bậc thứ 4 trong tôn tước rất ít khi phong cho người còn sống; lấy tên Huyện làm tước danh; không ban thực ấp. Bậc này được chánh nhị phẩm. Có phủ đệ riêng với 1 Thư lại, 5 nhân viên phục vụ.
Quốc Tử Giám: Quốc Tử Giám lập từ thời Lý Nhân Tông năm 1076. Đây là nhà Quốc học- trường học đầu tiên ở nước ta. Năm Quý Sửu (1253) Trần Thánh Tông cho đổi thành Quốc Học Viện, sau đổi là Thái Học Viện, làm nơi giảng dạy cho con em vua quan và học trò giỏi trong cả nước. Địa điểm tại Văn Miếu, Hà Nội nay. Quốc Từ Giám thời Trần có Tư nghiệp coi việc dạy Hoàng tử học tập. Quốc Tử Giám thời Lê có Tế tửu, Tư nghiệp, Ngũ kinh, Giáo thụ, Ngũ kinh học sĩ, Giám bạ. Học sinh trong Quốc Tử Giám là Giám sinh. Thời Nguyện Quốc Tử Giám dời vào kinh đô Huế.
Người trong họ Tôn Thất được chọn vào học ở Quốc Tử Giám gọi là Tôn sinh. Năm Gia Long thứ 3 (1804) đặt chức Đốc học bậc chánh tứ phẩm, Phó Đốc học, trật tòng tứ phẩm, quản lý Quốc Tử Giám. Năm Minh Mạng thứ 2 (1821) đổi đặt chức Tế tửu, Tư nghiệp bậc như cũ. Về sau Quốc Tử Giám đặt ở Di Luân Đường trong nội (thành) với hệ thống giảng đường, ký túc xá và nhà sách. Học sinh trường Quốc Tử Giám gồm: Tôn sinh do Tôn nhân phủ chọn; Cống sinh do các địa phương chọn; ấm sinh chọn từ các con quan; Cử nhân do bộ Lễ chọn vào học, năm sau cho dự kỳ thi Hội.
Sinh đồ. Theo Cương mục, người thi Hương trúng 3 kỳ gọi là Sinh đồ. Sinh đồ tương đương học vị Tú tài thời Nguyễn.
Sứ bộ: Chỉ các thành viên trong đoàn đi sứ nước ngoài trước đây.
Sử quán Tổng tài: Người đứng đầu biên soạn quốc sử trong Quốc Sử Quán triều Lê- Nguyễn.
Tả Bộc xạ: Thời Trần coi Tả Hữu bộc xạ là Hữu tướng quốc tức là Thái tế - Tể tướng.
Tả Đô đốc: Chức chỉ huy Bắc quân đặt thời Lê Thánh Tông, tước Bá.
Tả Thị lang: Đặt từ thời Quang Thuận (1460-1469). Thời Nguyễn 6 bộ đều đặt chức Tả Hữu Thị lang, trật chánh tam phẩm.
Tam trường: Kỳ thi Hương gồm tứ trường, ai đậu tam trường là Sinh đồ; đậu tứ trường được vào học Quốc Tử Giám.
Tập ấm: Chế độ nhà Nguyễn quy định con được kế thừa nghề của cha.
Tể tướng: Đặt từ thời Lê Hoàn năm Kỷ Mùi (995). Thời Lý Thái Tông (1028- 1054) đặt chức Phụ quốc Thái uý ngang chức Tể tướng. Thời Lê Thánh Tông bãi chức Tế tướng.
Thái bảo: Đặt từ thời Lý (1010). Đời Lê cũng có chức này, trật chánh nhất phẩm.
Thái bộc tự thiếu khanh: Chức đứng hàng thứ hai của Thái bộc tự; cơ quan giữ việc âm dương, bói toán. Thời Bảo Thái; trật chánh lục phẩm.
Thái y viện: Lập từ thời Lê. Có Viện đại sứ, Phó sứ, Ngự y, chánh phó thuộc bộ Lễ, chuyên trách việc chữa bệnh trong cung.
Tham chính:Đặt từ thời Nguyễn, trật tòng nhất phẩm.
Tham đốc: Đặt từ thời Hồng Đức, trật tòng nhị phẩm.
Tham nghị:Chức quan đại thần triều Nguyễn, trật tòng nhất phẩm.
Tham tri: Đặt từ thời Lê thế kỷ XV, coi việc sổ sách quân dân của một đạo. Theo quan chế thời Minh Mạng Tả Hữu Tham tri trật tòng nhị phẩm văn giai.
Tham tụng: Thời Hoàng Định (1600-1619) đặt chức Tham tụng làm việc trong phủ chúa. Tham tụng là Tể tướng.
Thị lang: Đặt từ thời Lý. Thời Hồng Đức có Tả, Hữu Thị lang, chức phó của Thượng thư, trật chánh tam phẩm.
Thí sai: Chức quan thời kỳ tập sự, sau 3 năm mới được bổ dụng
Thiêm sự: Đặt thời Lê Thái Tổ (1428: 1433) thuộc Mật viện, trật chánh ngũ phẩm. Thời Gia Long bỏ chức này.
Thiếu doãn phủ: Chức phó của Doãn (phủ) Phụng Thiên (Thăng Long), trật chánh lục phẩm.
Thông chính phó sứ: Chức quan hàng thứ hai ở cơ quan Thông chính sứ ty thời Nguyễn, trật tòng tam phẩm.
Thông chính sứ: Đứng đầu cơ quan Thông chính sứ ty, trật tòng tứ phẩm.
Thông lại:chức dưới Đề lại làm việc ở huyện thời Nguyễn. Mỗi phủ đặt 5-8 Thông lại, huyện 4-7 Thông lại.
Thông phán: Đặt từ đời Trần; thời Nguyễn, Thông phán, trật tòng ngũ phẩm.
Thư ký Hội đồng hương chính: Theo nghị định (ngày 12 tháng 8 năm 1921) của Thống sứ Bắc Kỳ về việc cải lương hương chính lần thứ nhất, quy định tại các làng xã Hội đồng kỳ mục sẽ được thay thế bằng Hội đồng tộc biểu hay còn gọi là Hội đồng hương chính. Hội đồng này do các họ cử người tham gia. Họ đông người có thể cử từ 2 đến 4 người; họ nhỏ cử 1 người. Hội đồng hương chính do Chánh hương hội đứng đầu, giúp việc có Phó hương hội, Trương tuần và Thư ký Hội đồng. Hội đồng tộc biểu tồn tại đến năm 1927 thì chính quyền bảo hộ lại phải khôi phục Hội đồng kỳ mục như trước kia. Cuộc cải lương hương chính của chính quyền bảo hộ thất bại.
Thừa chính sứ: Chức quan đặt từ thời Quang Thuận (1460- 1469). Năm Bính Tuất (1466) Lê Thánh Tông chia nước ta làm 12 đạo. Mỗi đạo đặt chức Đô ty và Thừa ty. Đặt chức Thừa chính sứ (trưởng quan) và Thừa chính phó sứ; dưới có Tham chính, Tham nghị.
Thừa tuyên sứ: Khoảng giữa thời Hồng Đức (1470- 1497) đặt 13 Thừa tuyên trong nước. Dùng đầu mỗi Thừa tuyên có Thừa tuyên sứ.
Thượng bảo khanh: Chức trưởng quan của Thượng bảo tự, thời Bảo Thái (1705- 1729) trật chánh ngũ phẩm. Thời Nguyễn trật tòng tam phẩm văn giai.
Thượng thư: Chức Thượng thư đặt từ thời Lý, chức quan đứng đầu phụ trách bộ, nhưng tên các bộ chưa rõ. Đến thời Trần ; Đại Khánh (1314- 1324) và Quang Thái (1388- 1398) mới đặt Thượng thư các bộ. Lê Thánh Tông đặt Thượng thư 6 bộ: Lại, Hình, Lễ, Công, Binh, Hộ. Thượng thư được ban an của bộ và trật tòng nhị phẩm.
Trạng nguyên: Người đỗ đầu trong kỳ thi thời Trần. Năm Đinh Mùi (1247) chính thức định ra Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Đó là 3 người đỗ ở vị trí thứ nhất, nhì, ba trong kỳ thi Thái học sinh (kỳ thi Đình từ thời Lê về sau).
Trạng Trình: Nguyễn Bình Khiêm đỗ Trạng nguyên khoa thi năm ất Mùi (1535). Ông làm quan với nhà Mạc đến chức Thượng thư bộ Lại, Thái phó, tước Trình Quốc công. Vì thế ông được gọi là Trạng Trình.
Trấn thủ: Chức quan đứng đầu các trấn thời cuối Lê đầu Nguyễn (cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX), khi chưa đặt cấp tỉnh.
Tri châu: Chức quan làm việc bên ngoài kinh đô đặt từ thời Lý Thái Tông (1028- 1054). Thời Quang Thuận đổi Phòng ngự sứ làm Tri châu, trật tòng thất phẩm. Thời Nguyễn bắt đầu dùng Thổ Tri châu. Từ năm 1836 Minh Mạng áp đặt chế độ lưu quan ở miền núi, trật chánh lục phẩm đến chánh ngũ phẩm.
Tri huyện: Trưởng quan cấp huyện thời Nguyễn.
Tri phủ: Thời Trần đặt cấp hành chính gọi là phủ. Phủ do lộ quản. Trưởng quan có Tri phủ, phó chức là Tri phủ đồng tri. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đặt Tri phủ, Tri huyện mỗi hạt một viên. Có nơi đặt Đồng Tri phủ, trật chánh lục phẩm.
Triều liệt đại phu: Tên thuỵ ban cho chức quan trật tòng tứ phẩm văn giai thời Nguyễn.
Tú tài: Người tham dự thi Hương thời Nguyễn, đỗ tam trường thì gọi là Tú tài.
Tuần kiểm sứ: Chức quan coi cửa ải, đặt từ năm Mậu Thân (1488) thời Lê Thánh Tông.
Tuần phủ: Chức quan đứng đầu tỉnh thời Nguyễn.
Tư huấn: Chức trưởng quan của Tú lâm cục, Chiêu văn quán và Sùng văn quán thuộc Viện Hàn lâm.
Tư nghiệp, Tế tửu: Xem - Quốc Tử Giám.
Tự thừa: Chức quan coi việc giữ đền miếu ở các tỉnh và kinh đô, đặt từ thời Minh Mạng (1820-1840).
Viên ngoại lang: Chức quan đặt từ thời Trần, làm công việc ngoại giao. Thời nguyễn Viên ngoại lang đứng háng thứ hai mỗi ty, sau chức Lang trung, trật chánh ngũ phẩm văn giai.
Vinh lộc đại phu: Chức tản quan bên ngạch văn, võ thời Lê. Nhà Nguyễn lấy thuỵ hiệu đó phong cho các quan trật tòng nhất phẩm.
Vệ uý: Chức quan võ chỉ huy các vệ Cẩm y, Kim ngô, Vệ loan giá thời Nguyễn.
Xã chính: Chức quan đứng đầu hàng xã thời Lê.
Xã sử: Chức phó, giúp việc cho xã Trưởng thời Lê.
Xã trưởng: Chức quan đứng đầu hàng xã thời Lê.
Án sát: Tháng 6 năm Hồng Đức thứ 2 (1471), đặt chức Án sát ở 12 Thừa tuyên và đặt bat y (tức Đô ty, Thừa ty, Hiến ty) ở Quảng Nam. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) quy định Án sát dưới quyền Tổng đốc, Tuần phủ. Ty Án sát sứ các tỉnh có Thông phán, Kinh lịch, bát cửu phẩm Thư lại, Vị nhập lưu thư lại. Số lượng nhiều ít tuỳ theo từng tỉnh.
Ở các tỉnh nhỏ chỉ có Tuần vũ thì Án sát giữ vị trí tỉnh Phó giữ việc hình. Thời Tự Đức (1848-1883) Án sát coi như tỉnh Phó của tỉnh nhỏ.
Án sát sứ ty: là cơ quan phụ trách việc hình thời Nguyễn. Là ty giúp việc cho Tổng đốc hoặc Tuần vũ.
Ấm chức: Theo Phan Huy Chú-Lịch triều hiến chương loại chí- Cấp bậc phong Ấm thực thi từ thời Trần Thánh Tông, năm Thiệu Phong thứ 10(1267). Lúc bấy giờ định lệ phong Ấm cho Tôn Thất. (Con cháu trước làm tới chức tước gì thì quy định ông cha được truy phong ở mức nào). Đến thời Lê, thời Lê Thánh Tông lệ phong Ấm được quy định khá chi tiết.
Ví dụ: Quận công thì cha và ông đều được phong tước hầu, mẹ và bà đều được phong Chánh phu nhân, vợ được phong Phu nhân, con trưởng được phong Triều liệt đại phu, các con được phong Hoằng tín đại phu, cháu trưởng được phong Hiển cung đại phu.
Tước hầu thì cha và ông đều được phong Bá, mẹ và bà đều được phong Tự Phu nhân, các con trưởng được phong Hoằng tín đại phu, các con được phong Hiển cung đại phu, cháu trưởng được phong Mậu lâm lang…
Đời Huyền Tông, năm Cảnh Trị thứ 2 (1664). chuẩn định cho công thần khai quốc từ Tam thái, Tam thiếu trở lên con cháu đời đời là công thần tôn; công thần trung hưng, thì từ Tả Hữu Đô đốc, Tả Hữu Thị Lang trở lên con cháu đời đời là quan viên tử.
Bá: Tước thứ 3 trong 5 tước thời phong kiến: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.
Từ thời Lý đã đặt ra tước: Tước Vương, tước công ban cho các thân vương của vua.
Đời Trần ngoài tước Vương còn ban tặng các tước khác như: Quốc, Công, Thượng Hầu, Quan nội hầu, Thượng phẩm, Quan phục hầu…
Đời Lê thế kỉ XV, Lê Lợi ban phong cho các tướng công thần các tước khác nhau như Á hầu, Thông hầu, Minh tự, Đại liêu ban…
Đời Lê Thánh Tông, năm Hồng Đức thứ 2 (1471) bắt đầu định quan chế và các tước; trong đó có 5 tước Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Các đời về sau vẫn dựa theo thể lệ đó; tuy nhiên cũng có sự thay đổi về việc ban, phong cho các công thần. Cũng theo quy chế thời Hồng Đức tước Quận công lấy tên phủ, huyện (1 chữ đầu) làm hiệu; tước Hầu, Bá lấy tên xã làm hiệu.
Ví dụ: Lương Xuyên Bá Vũ Yêm con trưởng cụ Vũ Cảo (chi IV).
Tước Tử, Nam lấy tên xã, cũng có khi lấy tên người được phong.
Ví dụ: Vũ Trung là con Vũ Phẩm, làm chức huyện thừa được phong Nhuận Trạch Nam.
Vũ Duy Thảo, con cụ Vũ Duy Liên, Học quan, làm Tham nghị xứ Kinh Bắc, tước Tham Trạch Tử…
Bảng nhãn: Từ năm Bính Ngọ (1246) đời Trần Thánh Tông (1225-1258) định ra Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám Hoa. Năm sau chính thức định là Tam khởi, Lê Thánh Tông, năm Nhâm Thìn (1472) cho đổi gọi Bảng nhãn là Đệ nhị giáp Tiến sĩ cập đệ- đệ nhị danh. Bảng nhãn tặng hàm tong lục phẩm, 7 tư. Nếu vào làm việc ở viện Hàn lâm thì thăng lên một cấp.
Bách hộ: Quan chế thời Hồng Đức, ban võ có chức Bách hộ, trật chánh lục phẩm.
Thời Nguyễn thế kỷ XIX, Bách hộ trở thành hư hàm; có thể mua được.
Binh bộ: Từ thời Lê Nghi Dân, năm Kỉ Mão (1459) bắt đầu đặt đủ 6 bộ trong đó có bộ Binh. Đến tháng 6 năm Ất Mão (1675) đời vua Lê Gia Tông định rõ chức việc của 6 bộ. Trong đó quy định bộ Binh giữ việc binh nhung.
Biên chế bộ Binh thời Nguyễn gồm có: 1 Thượng thư, 2 Tả lang, 5 Chủ sự, 10 chánh bát phẩm Thư lại, 10 chánh cửu bát phẩm Thư lại. Cơ quan thuộc bộ gồm 1 xứ Binh trực và 7 ty giữ các việc lien quan đến binh nhung.
Biện nghiệm: Theo Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử- chức Thái y biện nghiệm làm nhiệm vụ thăm khám cho người bệnh.
Bồi tụng : Là Á tướng, thứ bậc sau Tể tướng, từ thời Lê trung hưng thế kỉ XVII về sau chúa Trịnh nắm quyền mới đặt chức Bồi tụ phủ đường. Khi Lê Chiêu Thống lên ngôi năm Đinh Mùi (1787) đã bãi bỏ chức Bồi tụng mà lại đặt chức Tham tri như trước.
Cai hợp: Chức quan trong các phiên ở phủ chúa Trịnh.
Dưới thời các chúa Nguyễn là chức quan Tá nhị của 3 ty Xá sai, Lệnh sử và Tướng thần lại. Thời Minh Mạng (1829-1840) bỏ chức Cai hợp.
Cai tổng:Đơn vị hành chính tổng có thể xuất hiện vào thời Mạc, thế kỉ XVI. Tổng lớn hơn xã, một tổng có thể gồm từ 3 đến 5 xã. Cai tổng là người cai quản tổng đó. Quyền hạn của Cai tổng cũng tương tự như Chánh tổng thời Nguyễn (1802-1945)
Cẩm vệ y: Là cơ quan xét kiện thời Lê Thánh Tông. Về sau có sự thay đổi; theo Sử học bị khảo: Cấm quân 2 vệ Cẩm y và Kim ngô vệ nào cũng có Đô chỉ huy sứ, Thiêm tư, Trấn điện tướng quân, Lực sĩ hiệu uý, Đoán sự, Thiên hộ 5 sở Thiên hộ, Phó thiên hộ.
Lương y sở, Lương y chính lại thuộc về Cẩm y…
Cẩm vệ y thời Nguyễn gồm 10 đội túc trực; là thiên binh túc vệ vua (bảo vệ vua).
Công bộ thị lang: là chức phó của Công bộ thượng thư. Thời Nguyễn trong mỗi bộ đặt Tả hữu Tham tri, đứng dưới Thượng thư, Tả Hữu Thị Lang đứng hang thứ ba.
Cử nhân: học vị cấp cho người trúng tuyển kì thi Hương. Từ năm Giáp Thân (1404) Hồ Hán Thương định cách chức thi Cử nhân: Phép thi chia làm 4 kì, sau thêm kì thi viết chữ và tính (5 kì). Quân nhân, phường chèo, người có tội không được thi. Ai đỗ kì thi Hương được miễn lao dịch, miễn đi lính.
Đại lý tự: Là tên cơ quan. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) đổi đặt 6 Viện là 6 Tự. Trong đó có các chức Khanh, Thiếu Khanh, Thừa.
Nhà Nguyễn cũng đặt Đại lý tự. Năm Minh Mạng thứ 8 (1827) chuẩn định quan chế có Đại lý tự khanh, trật chánh tam phẩm. Đại lý tự thiếu khanh, trật chánh tứ phẩm. Viên ngoại lang 1 viên, chủ sự 2 viên, Tự vụ 2 viên, Bát cửu phẩm thư lại gồm 4 viên, vị nhập lưu Thư lại gồm 20 người. Đại lý tự cùng bộ Hình, Viện đô sát thành tam pháp ty xét việc hình án.
Đại lý tự khánh: Trưởng quan của Đại lý tự.
Đại tướng quân: Năm Bính Thân (1296) đời Trần lấy Phạm Ngũ Lão làm Hữu kim ngô vệ Đại tướng quân. Năm Ất Dậu (1405), thời Hồ Hán Thương, Đại tướng quân được giao trông coi các quân mới lập. Năm 1428, những vũ khí lớn cũng gọi là Đại tướng quân. Thời Nguyễn cũng dùng danh hiệu này.
Đại nguyên soái: Thời vua Lê-chúa Trịnh, năm Kỉ Hợi (1599) chúa Trịnh Tùng tự phong Đô nguyên soái-Đại nguyên soái. Năm Mậu Thân (1668) Trịnh Tạc cũng tự phong Đại nguyên soái thượng sư thái phụ Tây Vương.
Điển bạ: Năm Minh mạng thứ 8 (1827) đặt chức Điển bạ trong Quốc Tử Giám, trật tòng bát phẩm.
Đề lại:Danh chức lại viên định năm Đinh Dậu (1477) quy định: Lại viên các nha môn ở trong không có xuất thân khi mới bổ sung cho làm Thông lại, sau 6 năm thăng làm Đề lại. Năm Gia Long thứ nhất (1802) mỗi phủ nha đặt 2 đề lại, 8 Thông lại; trật chánh cửu phẩm văn ban.
Cấp sự trung: Trong sáu khoa đặt từ thời Lê Nghi Dân có các chức Đô cấp sự trung, Cấp sự trung, trật chánh thất phẩm, bát phẩm.
Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), đặt chức Chưởng ấn Cấp sự trung, trật tòng tứ phẩm.
Câu kê:Là chức quan trong các phiên của phủ chúa, đứng dưới chức Thiêm tri phiên. Trật chánh thất phẩm. Thời các chúa Nguyễn chức Câu kê có thay đổi.
Chỉ huy sứ ty: Là chức quan Võ thời Nguyễn thuộc vệ Cẩm y, chỉ huy các đội thường trực và ty trấn phủ, trật chánh tam phẩm võ ban.
Chính tự. Theo quan chế thời Bảo Thái, Trung thư giám Chính tự trật chánh thất phẩm. Thời Nguyễn quan Chính tự làm nhiệm vụ dạy học. Lấy Hàn lâm viện Kiểm thảo, Đãi chiếu sung vào
Chiêu văn quán, Tú lâm cục: Theo Phạm Đình Hổ, thời Hồng Đức (1470-1497) đặt ra Sùng văn quán, Tú lâm cục. Con của các quan ở ban văn từ tam phẩm trở lên, được bổ làm học sinh Sùng văn quán. Con các quan từ ngũ phẩm tr?lên được bổ làm học sinh Tú lâm cục... nếu như nghiệp của họ không tinh, cho lui về làm quan viên tử.
Đến thời hậu Lê (từ Lê Trang Tông 1533-1548) trở đi đổi Sùng văn quán làm Chiêu văn quán, con các quan ở phẩm hàm cuối gọi là Tú lâm cục.
Công bộ : Là một trong sáu bộ, đặt từ thời Lê Nghi Dân. Công bộ đảm trách việc xây dựng thành hào, cầu cống, đường xá, tu sửa, xây dựng nhà sở; thi hành lệnh cấm về núi rừng, vườn tược, sông.
Biên chế Công bộ thời Nguyễn gồm: 1 Thượng thư, 2 Tả Hữu Tham tri, 2 Tả Hữu Thị lang, 3 Lang trung, 3 Viên ngoại, 4 Chủ sự, 4 Tư vụ, 8 chánh bát phẩm Thư lại.
Công bộ Thượng thư: Quan đứng đầu bộ Công, theo quan chế thời Hồng Đức và Bảo Thái cho hàm tòng nhị phẩm; thời Nguyễn cho hàm Chánh nhị phẩm, thuộc hàng Chánh khanh.
Đề điệu: Tên chức quan. Trong các kỳ thi Hội thời Lê có một quan đứng đầu trường thi (Chánh chủ khảo) là Đề điệu. Chức này thường dùng đại thần không kể quan văn hay võ. Thời Nguyễn nó dùng chức Đề điệu, thường củ người có khoa bảng giữ chức
Đô ngự sử:Thời Lê Thái Tổ theo quan chế thời Trần, đặt Ngự sử đài có các chức Thị ngự sử, Ngự sử trung thừa, Phó trung thừa, Giám sát ngư sử, Chủ bạ; sau đặt Đô ngự Sử, Phó đô ngự sử, Thiêm đô ngự sử cùng trưởng quan là Ngự sử đại phu. Đô ngư sử giữ phong hóa pháp độ, chức rất trọng. Thời Nguyễn chức quan đứng đầu Đô sát viện trật chánh nhị phẩm văn ban.
Đô đốc : Thời Quang Thái nhà Trần đặt chức Đô đốc ở các bộ. Năm Tân Ty (1461) bổ dụng Lê Lộng làm Đô đốc bình chương quân quốc trọng sự. Đô đốc kiêm chức Tế tướng. Năm Bính Tuất (1466) bắt đầu đặt quân 5 phủ: Trung quân phủ, Đông quân phủ, Tây quân phủ, Nam quân phủ, Bắc quân phủ. Gọi là ngũ quân Đô đốc phủ. Có các chức Tả Hữu Đô đốc, Đô đốc đồng tri, Đô đốc thiêm sự chuyển giữ việc quân. Quan chế thời Hồng Đức cho Tả Hữu Đô đốc trật tòng nhất phẩm.
Đô đốc phủ: Năm Đinh Sửu (1397) định lại quy chế về quan ngoài cấp bộ đặt phủ Đô đốc để trông coi.
Đô lại: Danh chức này định ra từ năm Đinh Dậu (1477). Thư lại sau 3 năm làm việc sung làm Đại lại, tiếp theo 3 năm nữa thăng là Điển lại, 3 năm nữa không phạm lỗi gì sẽ được thăng Đô Đạo các Thừa lệnh sở ở các nha phủ làm việc Bầu 3 năm thì thăng Đô lại
Đốc đồng:Theo Phan Huy Chú chức Đốc đồng đặt ra từ thời Lê trung hưng. ở các trấn đặt chức Đốc đồng; khám xét việc kiện cáo Chức Đốc đồng dùng quan tứ phẩm, ngũ phẩm trở xuống
Đồng tri phủ:Năm Bính Tuất (1466), bãi bỏ các lộ, trấn, đổi đặt là phủ. Đổi An phủ sứ làm Tri phủ. Trấn phủ sứ làm Đồng tri phủ. Theo quan chế thời Bảo Thái (1720-1729) Đồng tri phủ trật chánh thất phẩm.
Đông các hiệu thư:Theo quan chế thời Hồng Đức, năm Tân Mão (1471) đặt chức Đông các hiệu thư, trật chánh lục phẩm; vinh phong Mậu lâm lang ngang với Hàn lâm viện Thị thư.
Đồng tri châu: Thời Hồng Đửc đổi trấn làm châu, đổi Phòng ngụ làm Tri châu, Đồng Tri châu là Phó của Tri châu, cùng cai quản một châu. Quan chế thời Bảo Thái cho trật tòng bát phẩm.
Đốc học: Là Học quan cấp tỉnh thời Nguyễn. Năm Minh Mạng thứ 4 (1823) đặt chức Phó Đốc học ở một số nơi.
Đội trưởng: Tổ chức quân đội thời Nguyễn chia mỗi đội thành 50 người, đặt Cai đội 1 người, Đội trưởng và Ngoại uỷ Đội trưởng 2 người. Đội trưởng quân ở các tỉnh trật tòng thất phẩm.
Đồn điền sở. Lập sở đồn điền từ năm Tân Sửu (1481). Sở này có chức năng quản lý việc làm ruộng. Trưởng quan là Đồn điền sứ.
Đồn điền sở phó sứ. Là chức phó của Đồn điền sở sứ thời Lê.
Giáp: Là tổ chức quần chúng tự nguyện tập hợp những người đàn ông trong một làng, cùng lo việc tế thần và giúp nhau trong cuộc sống. Giáp có một Giáp trưởng do cả Giáp bầu ra. Giáp thường đặt tên theo phương hướng, theo số thứ tự, theo tên chữ. Giáp xuất hiện từ thời Hồng Đửc, nửa sau thế kỷ XV.
Giải nguyên.Người đỗ đầu trong kỳ thi Hương thời Nguyễn.
Giảng dụ: Là chức quan giảng dạy trong cung thời Bảo Thái, trật chánh cửu phẩm.
Giám sát ngự sử: Theo Phan Huy Chú: Thời Lê Thánh Tông đặt chức Giám sát ngự sử và 13 Giám sát ngự sử ở các đạo. Thời Lê trung hưng về sau theo đó không đổi. Ngự sử đài trông coi công việc của Ngụ sử 13 đạo. Giám sát ngự sử 13 đạo trật chánh thất phẩm.
Giám sinh: Là học sinh Quốc Tử Giám, đặt ra từ thời Lê. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục: Người nào thi Hương trúng 4 kỳ được sung vào học tại Quốc Tử Giám. Giám sinh chia làm 3 xá: Thượng xá sinh, trung xá sinh, hạ xá sinh. Thời Nguyễn những học sinh đã đỗ Cử nhân, chuẩn bị thi Hội được vào học ở Quốc Tử Giám.
Hàn lâm viện: Là tên cơ quan. Từ thời Lý đã đặt Hàn lâm viện và đặt chức Học sĩ. Nhà Lê cũng noi theo thời Lý-Trần đặt Hàn lâm viện có chức Phụng chỉ, Thị độc, Thị giảng, Trực học sĩ, Tri chế cáo, Đãi chế, Hiệu điểm. Sau lại đặt Đại học sĩ. Thời Lê Thánh Tông bỏ Đại học sĩ đặt Thừa chỉ, Thị độc, Thị giảng, Thị thư, Đãi chế, Hiệu lý, Tu soạn, Kiểm thảo, trật từ chánh tứ phẩm trở xuống. Nhà Nguyễn vẫn đặt Hàn lâm viện, tuy có thay đổi một số chức trong đó: Hàn lâm viện Chưởng viện học sĩ, Trực học sĩ, trật Chánh tam phẩm. Hàn lâm viện Thị độc học sĩ chánh tử phẩm trở xuống.
Hàn lâm viên biên tu:Chức này trong Viện Hàn lâm được đặt từ năm Minh Mạng thứ 8 (1827), trật chánh thất phẩm.
Hàn lâm viện Đãi chiếu: Nhà Lê đặt Hàn lâm, trong đó có chức Đãi chế. Nhà Nguyễn trong Viện Hàn lâm có chức thấp nhất tòng cửu phẩm gọi là Hàn lâm Đãi chiếu.
Hàn lâm viện Hiệu thảo: Theo quan chế thời Bảo Thái có chức Hàn lâm viện Hiệu thảo, trật tòng thất phẩm.
Hàn lâm viện Thị độc: Theo quan chế thời Hồng Đức, Hàn lâm viện Thị độc trật chánh ngũ phẩm. Thời Nguyễn cũng có chức quan Hàn lâm viện Thị độc.
Hình bộ Hữu Thị lang:Chức quan đứng hàng thứ ba trong bộ Hình thời Nguyễn, trật chánh tam phẩm. Thời Lê, Hữu Thị lang là chức phó của Thượng thư.
Hình bộ Tả Thị lang: Chức quan đứng thứ ba trong bộ Hình thời Nguyễn, trật chánh tam phẩm. ởthời Lê Tả Thị lang cũng là chức phó của Thượng thư.
Hình bộ Thượng thư: Là trưởng quan của bộ Hình. Theo quan chế thời Hồng Đức Thượng thư trật tòng nhị phẩm; thời Nguyễn chánh nhị phẩm.
Hiến sát sứ: Là trưởng quan của Hiến sát sứ ty. Theo quan chế thời Hồng Đức, chức Hiến sát sứ, Hiến sát phó sứ chức vụ là đàn hặc, xét hỏi, khám đoán, hội đồng kiểm soát, khảo khoá, tuần hành... Thời Bảo Thái, Hiến sát sứ hàm chánh lục phẩm.
Hiến sát phó sứ: Là chức quan thứ hai, sau Hiến sát sứ; theo quan chế thời Bảo Thái hàm chánh thất phẩm.
Hoàng giáp: Học vị gọi những người thi Đình đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân- đỗ thứ hai trong kỳ thi Đình.
Hộ bộ Hữu Thị lang: Chức quan dưới Thượng thư và Tham tri; có Tả, Hữu 2 người, trật chánh tam phẩm.
Hộ bộ Thượng thư: Trưởng quan của bộ Hộ, trật tòng nhị phẩm. Thời Nguyễn hàm chánh nhị phẩm.
Hoành từ khoa: Năm Đinh Hợi (1467) mở khoa Hoành từ để chọn nhân tài- văn hay học rộng. Quan từ tứ phẩm trở xuống đều được dự thi. Người nào trúng tuyển được vào học ở Bí thư giám.
Hội chủ: Người đứng chủ một hội như Hội thiện, Hội sãi vãi, thường làm các việc hưng công, trùng tu, xây dựng đình, chùa, quán... ở làng xã trước kia.
Hữu Thị lang: Là chức phó của Thượng thư thời Lê, trật tòng tam phẩm; có Tả, Hữu Thị lang. ởthời Nguyễn Tả, Hữu Thị lang đứng dưới chức Tả, Hữu Tham tri.
Hương cống: Học vị của người đỗ khoa thi năm Canh Thân (1740) thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738- 1765). Khoa thi này có 4 kỳ, ai đỗ kỳ thứ 4 gọi là Hương cống, sẽ được bổ làm Tri phủ, Tri huyện, Huấn đạo.
Huấn đạo phủ: Đạt từ thời Lê. Thời Nguyễn phủ nào có Tri phủ thì đặt Giáo thụ, có Đồng Tri phủ thì đặt Huấn đạo 1 người. Huyện cũng đặt 1 Huấn đạo. Châu sát biên giới không đặt chức này. Huấn đạo ở các huyện thời Nguyễn thường là chánh thất phẩm, tòng thất phẩm, hoặc chánh bát phẩm văn giai.
Huyện thừa: Thời Quang Thuận, năm Canh Thìn (1460) đổi chức Chuyển vận sứ làm Tri huyện, Tuần sát làm Huyện thừa. Thời Hồng Đức Huyện thừa trật tòng thất phẩm.
Khán thủ:Là chức việc hàng xã đặt từ thời Lê; có trách nhiệm đảm bảo an ninh trong làng xã, giống như chức Trương tuần thời Nguyễn.
Khoa Sĩ vọng: Theo Lê Quý Đôn – Kiến văn tiểu lục, thì khoa thi Sĩ vọng cũng gọi là khoa Hoành từ (xem khoa Hoành từ), chỉ có Cống sĩ mới được dự thi, nhằm cất nhắc những sĩ tử có danh tiếng mà lâu nay bị chìm đắm, chưa được trọng dụng. Khoa Sĩ vọng đặt ra từ tháng 8 năm ất Sửu (1625).
Khoá sinh: Là học trò thi trúng cách lần thứ hai ở huyện, trong những kỳ thi chọn người đi thi Hương.
Kỳ Anh quán:Là nơi tụ hội của các hưu quan làng Mộ Trạch để bình thơ, văn hoặc sát hạch học trò trước kỳ thi Hương.
Lại bộ: Đặt từ thời Lê Nghi Dân năm Kỷ Mão (1459); là một trong sáu bộ. Các quan gồm có Thượng thư (đúng đầu) Tả Hữu Thị lang, Lang trung, Viên ngoại lang, Tư vụ. Thời Nguyễn quan chức Lại bộ gồm : 1 Thượng thư, 2 Tả Hữu Tham tri, 2 Tả Hữu Thị lang, 3 Lang trung, 3 Viên ngoại lang, 4 Chủ cự, 4 Tư vụ, 8 bát phẩm Thư lại, 8 cửu phẩm Thư lại và 50 vị nhập lưu Thư lại.
Lại bộ Tả Thị lang: Theo quan chế Nguyễn, đó là chức quan đứng hàng thứ ba trong bộ Lại, trật chánh tam phẩm, ngang hàng với quan Hữu Thị lang.
Lang y (Lương y): Người làm nghề thày thuốc trong dân gian.
Lễ bộ Thượng thư: Quan đứng đầu bộ Lễ (một trong 6 bộ thời Lê). Thời Hồng Đức cho hàm nhị phẩm, thời Nguyễn hàm chánh nhị phẩm. Thời Lê năm ất Mão (1675), định rõ chức vụ của 6 bộ; bộ Lễ đảm trách giữ việc Lễ nghi tế tự, khánh tiết, yến tiệc, trường học thi cử, ấn tín, phù hiệu, áo mũ, chương tấu biểu văn, sứ thần cống nạp, các quan chào mừng, tư thiên giám, thuốc thang, bói toán, đạo lục, đồng văn nhã nhạc, giáo phường. Quan chế thời Nguyễn, biên chế gồm: 1 Thượng thư, 2 Tả Hữu Tham tri, 2 Tả Hữu Thị lang, 3 Lang trung, 3 Viên ngoại, 4 Chủ sự, 5 Tư vụ, 7 Viên chánh bát phẩm Thư lại, 8 viên chánh cửu phẩm Thư lại và 50 vị nhập lưu Thư lại.
Lệnh sử: Theo Lịch triều hiện chương loại chí: Lệnh sử được quyền khám hỏi các việc lặt vặt của các xã dân kiện nhau. Việc quan hệ đến hình luật thì do quan có thẩm quyền xét xử.
Lý trưởng: Người đứng đầu hàng xã, giống như Xã quan- Xã trưởng trước đây. Chức Lý trưởng được đặt ra từ thời Minh Mạng (1820-1840) là người đứng đầu chính quyền cấp cơ sở của chế độ phong kiến và thực dân sau này.
Nhiêu nam: Là danh hiệu đặt từ thời Lê để gọi nam giới ở trong các làng xã đã ở tuổi 55-60 (được miễn phu phen tạp dịch). Hoặc dùng để tặng những người có công bắt được trộm cướp ở làng, tuy chưa đến tuổi trên.
Nho sinh: Theo Cương mục: Con cháu các quan viên được sung vào học ở Chiêu văn quán, hoặc Tú lâm cục gọi là Nho sinh.
Nho sinh trúng thức: Thời Lê chia học trò làm hai hạng gồm: Nho sinh trúng thức, Giám sinh và Nho sinh, Sinh đồ; tuỳ theo tài đức của mỗi hạng mà bổ dụng.
Nhập nội hành khiển: Đặt từ thời Lý, chuyên dùng hoạn quan ở chức đó. Đời Trần thời Thiệu Phong (1341-1357) dùng người có văn học giữ chức Nhập nội hành khiển: Chức này đứng sau chức Tể tướng.
Phó bảng: Học vị được đặt thêm từ năm Minh Mạng thứ 10 (1829). Phó bảng xếp sau Tiến sĩ, không được dự thi Đình. Tên được ghi vào bảng đỏ, không được khắc vào bia đá.
Phó tổng: Cấp phó của Chánh tổng được đặt từ thời Gia Long (1802- 1819). Tổng gồm từ 3 đến 5, 6 xã, Chánh tổng đứng đầu tổng. Phó tổng phụ tá cho Chánh tổng, được trật tòng cửu phẩm võ giai.
Phó câu kê: Là chức quan trong các phiên của phủ chúa Trình, trật tòng thất phẩm.
Phó sở sứ: Chức quan phó quản lý các sở như các sở đồn điền, sở tầm tang, điển mục... Bách ký sở.
Pháp môn phù thuỷ: Là người hành nghề cúng bái, ma thuật.
Phủ doãn: Chức quan đặt thời Lê, cai quản phủ Phụng Thiên (tức kinh đô Thăng long ) trật chánh ngũ phẩm. Thời Nguyễn đặt Phủ doãn phủ Thừa Thiên, trật chánh tam phẩm.
Phụ quốc Thượng tướng: Đặt từ thời Lý. Lý Thường Kiệt được phong Phụ quốc Thượng tướng quân khai quốc công.
Quan sử- Sử quan, người làm công việc biên chép sử thời phong kiến.
Quản giáp: Nhà Lý chia đặt bình thành từng giáp, mỗi giáp gồm 15 người; đặt 1 người Quản giáp.
Quận công: Theo quan chế thời Hồng Đức- Quận công về văn ban ngang chánh thất phẩm, võ ban tương tự. Thời Nguyễn Quận công là bậc thứ 4 trong tôn tước rất ít khi phong cho người còn sống; lấy tên Huyện làm tước danh; không ban thực ấp. Bậc này được chánh nhị phẩm. Có phủ đệ riêng với 1 Thư lại, 5 nhân viên phục vụ.
Quốc Tử Giám: Quốc Tử Giám lập từ thời Lý Nhân Tông năm 1076. Đây là nhà Quốc học- trường học đầu tiên ở nước ta. Năm Quý Sửu (1253) Trần Thánh Tông cho đổi thành Quốc Học Viện, sau đổi là Thái Học Viện, làm nơi giảng dạy cho con em vua quan và học trò giỏi trong cả nước. Địa điểm tại Văn Miếu, Hà Nội nay. Quốc Từ Giám thời Trần có Tư nghiệp coi việc dạy Hoàng tử học tập. Quốc Tử Giám thời Lê có Tế tửu, Tư nghiệp, Ngũ kinh, Giáo thụ, Ngũ kinh học sĩ, Giám bạ. Học sinh trong Quốc Tử Giám là Giám sinh. Thời Nguyện Quốc Tử Giám dời vào kinh đô Huế.
Người trong họ Tôn Thất được chọn vào học ở Quốc Tử Giám gọi là Tôn sinh. Năm Gia Long thứ 3 (1804) đặt chức Đốc học bậc chánh tứ phẩm, Phó Đốc học, trật tòng tứ phẩm, quản lý Quốc Tử Giám. Năm Minh Mạng thứ 2 (1821) đổi đặt chức Tế tửu, Tư nghiệp bậc như cũ. Về sau Quốc Tử Giám đặt ở Di Luân Đường trong nội (thành) với hệ thống giảng đường, ký túc xá và nhà sách. Học sinh trường Quốc Tử Giám gồm: Tôn sinh do Tôn nhân phủ chọn; Cống sinh do các địa phương chọn; ấm sinh chọn từ các con quan; Cử nhân do bộ Lễ chọn vào học, năm sau cho dự kỳ thi Hội.
Sinh đồ. Theo Cương mục, người thi Hương trúng 3 kỳ gọi là Sinh đồ. Sinh đồ tương đương học vị Tú tài thời Nguyễn.
Sứ bộ: Chỉ các thành viên trong đoàn đi sứ nước ngoài trước đây.
Sử quán Tổng tài: Người đứng đầu biên soạn quốc sử trong Quốc Sử Quán triều Lê- Nguyễn.
Tả Bộc xạ: Thời Trần coi Tả Hữu bộc xạ là Hữu tướng quốc tức là Thái tế - Tể tướng.
Tả Đô đốc: Chức chỉ huy Bắc quân đặt thời Lê Thánh Tông, tước Bá.
Tả Thị lang: Đặt từ thời Quang Thuận (1460-1469). Thời Nguyễn 6 bộ đều đặt chức Tả Hữu Thị lang, trật chánh tam phẩm.
Tam trường: Kỳ thi Hương gồm tứ trường, ai đậu tam trường là Sinh đồ; đậu tứ trường được vào học Quốc Tử Giám.
Tập ấm: Chế độ nhà Nguyễn quy định con được kế thừa nghề của cha.
Tể tướng: Đặt từ thời Lê Hoàn năm Kỷ Mùi (995). Thời Lý Thái Tông (1028- 1054) đặt chức Phụ quốc Thái uý ngang chức Tể tướng. Thời Lê Thánh Tông bãi chức Tế tướng.
Thái bảo: Đặt từ thời Lý (1010). Đời Lê cũng có chức này, trật chánh nhất phẩm.
Thái bộc tự thiếu khanh: Chức đứng hàng thứ hai của Thái bộc tự; cơ quan giữ việc âm dương, bói toán. Thời Bảo Thái; trật chánh lục phẩm.
Thái y viện: Lập từ thời Lê. Có Viện đại sứ, Phó sứ, Ngự y, chánh phó thuộc bộ Lễ, chuyên trách việc chữa bệnh trong cung.
Tham chính:Đặt từ thời Nguyễn, trật tòng nhất phẩm.
Tham đốc: Đặt từ thời Hồng Đức, trật tòng nhị phẩm.
Tham nghị:Chức quan đại thần triều Nguyễn, trật tòng nhất phẩm.
Tham tri: Đặt từ thời Lê thế kỷ XV, coi việc sổ sách quân dân của một đạo. Theo quan chế thời Minh Mạng Tả Hữu Tham tri trật tòng nhị phẩm văn giai.
Tham tụng: Thời Hoàng Định (1600-1619) đặt chức Tham tụng làm việc trong phủ chúa. Tham tụng là Tể tướng.
Thị lang: Đặt từ thời Lý. Thời Hồng Đức có Tả, Hữu Thị lang, chức phó của Thượng thư, trật chánh tam phẩm.
Thí sai: Chức quan thời kỳ tập sự, sau 3 năm mới được bổ dụng
Thiêm sự: Đặt thời Lê Thái Tổ (1428: 1433) thuộc Mật viện, trật chánh ngũ phẩm. Thời Gia Long bỏ chức này.
Thiếu doãn phủ: Chức phó của Doãn (phủ) Phụng Thiên (Thăng Long), trật chánh lục phẩm.
Thông chính phó sứ: Chức quan hàng thứ hai ở cơ quan Thông chính sứ ty thời Nguyễn, trật tòng tam phẩm.
Thông chính sứ: Đứng đầu cơ quan Thông chính sứ ty, trật tòng tứ phẩm.
Thông lại:chức dưới Đề lại làm việc ở huyện thời Nguyễn. Mỗi phủ đặt 5-8 Thông lại, huyện 4-7 Thông lại.
Thông phán: Đặt từ đời Trần; thời Nguyễn, Thông phán, trật tòng ngũ phẩm.
Thư ký Hội đồng hương chính: Theo nghị định (ngày 12 tháng 8 năm 1921) của Thống sứ Bắc Kỳ về việc cải lương hương chính lần thứ nhất, quy định tại các làng xã Hội đồng kỳ mục sẽ được thay thế bằng Hội đồng tộc biểu hay còn gọi là Hội đồng hương chính. Hội đồng này do các họ cử người tham gia. Họ đông người có thể cử từ 2 đến 4 người; họ nhỏ cử 1 người. Hội đồng hương chính do Chánh hương hội đứng đầu, giúp việc có Phó hương hội, Trương tuần và Thư ký Hội đồng. Hội đồng tộc biểu tồn tại đến năm 1927 thì chính quyền bảo hộ lại phải khôi phục Hội đồng kỳ mục như trước kia. Cuộc cải lương hương chính của chính quyền bảo hộ thất bại.
Thừa chính sứ: Chức quan đặt từ thời Quang Thuận (1460- 1469). Năm Bính Tuất (1466) Lê Thánh Tông chia nước ta làm 12 đạo. Mỗi đạo đặt chức Đô ty và Thừa ty. Đặt chức Thừa chính sứ (trưởng quan) và Thừa chính phó sứ; dưới có Tham chính, Tham nghị.
Thừa tuyên sứ: Khoảng giữa thời Hồng Đức (1470- 1497) đặt 13 Thừa tuyên trong nước. Dùng đầu mỗi Thừa tuyên có Thừa tuyên sứ.
Thượng bảo khanh: Chức trưởng quan của Thượng bảo tự, thời Bảo Thái (1705- 1729) trật chánh ngũ phẩm. Thời Nguyễn trật tòng tam phẩm văn giai.
Thượng thư: Chức Thượng thư đặt từ thời Lý, chức quan đứng đầu phụ trách bộ, nhưng tên các bộ chưa rõ. Đến thời Trần ; Đại Khánh (1314- 1324) và Quang Thái (1388- 1398) mới đặt Thượng thư các bộ. Lê Thánh Tông đặt Thượng thư 6 bộ: Lại, Hình, Lễ, Công, Binh, Hộ. Thượng thư được ban an của bộ và trật tòng nhị phẩm.
Trạng nguyên: Người đỗ đầu trong kỳ thi thời Trần. Năm Đinh Mùi (1247) chính thức định ra Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Đó là 3 người đỗ ở vị trí thứ nhất, nhì, ba trong kỳ thi Thái học sinh (kỳ thi Đình từ thời Lê về sau).
Trạng Trình: Nguyễn Bình Khiêm đỗ Trạng nguyên khoa thi năm ất Mùi (1535). Ông làm quan với nhà Mạc đến chức Thượng thư bộ Lại, Thái phó, tước Trình Quốc công. Vì thế ông được gọi là Trạng Trình.
Trấn thủ: Chức quan đứng đầu các trấn thời cuối Lê đầu Nguyễn (cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX), khi chưa đặt cấp tỉnh.
Tri châu: Chức quan làm việc bên ngoài kinh đô đặt từ thời Lý Thái Tông (1028- 1054). Thời Quang Thuận đổi Phòng ngự sứ làm Tri châu, trật tòng thất phẩm. Thời Nguyễn bắt đầu dùng Thổ Tri châu. Từ năm 1836 Minh Mạng áp đặt chế độ lưu quan ở miền núi, trật chánh lục phẩm đến chánh ngũ phẩm.
Tri huyện: Trưởng quan cấp huyện thời Nguyễn.
Tri phủ: Thời Trần đặt cấp hành chính gọi là phủ. Phủ do lộ quản. Trưởng quan có Tri phủ, phó chức là Tri phủ đồng tri. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đặt Tri phủ, Tri huyện mỗi hạt một viên. Có nơi đặt Đồng Tri phủ, trật chánh lục phẩm.
Triều liệt đại phu: Tên thuỵ ban cho chức quan trật tòng tứ phẩm văn giai thời Nguyễn.
Tú tài: Người tham dự thi Hương thời Nguyễn, đỗ tam trường thì gọi là Tú tài.
Tuần kiểm sứ: Chức quan coi cửa ải, đặt từ năm Mậu Thân (1488) thời Lê Thánh Tông.
Tuần phủ: Chức quan đứng đầu tỉnh thời Nguyễn.
Tư huấn: Chức trưởng quan của Tú lâm cục, Chiêu văn quán và Sùng văn quán thuộc Viện Hàn lâm.
Tư nghiệp, Tế tửu: Xem - Quốc Tử Giám.
Tự thừa: Chức quan coi việc giữ đền miếu ở các tỉnh và kinh đô, đặt từ thời Minh Mạng (1820-1840).
Viên ngoại lang: Chức quan đặt từ thời Trần, làm công việc ngoại giao. Thời nguyễn Viên ngoại lang đứng háng thứ hai mỗi ty, sau chức Lang trung, trật chánh ngũ phẩm văn giai.
Vinh lộc đại phu: Chức tản quan bên ngạch văn, võ thời Lê. Nhà Nguyễn lấy thuỵ hiệu đó phong cho các quan trật tòng nhất phẩm.
Vệ uý: Chức quan võ chỉ huy các vệ Cẩm y, Kim ngô, Vệ loan giá thời Nguyễn.
Xã chính: Chức quan đứng đầu hàng xã thời Lê.
Xã sử: Chức phó, giúp việc cho xã Trưởng thời Lê.
Xã trưởng: Chức quan đứng đầu hàng xã thời Lê.