Phật giáo và Kỳ Na giáo "thoát thai" từ Ấn Độ giáo (đạo Hindu)

Tượng Tổ sư Kỳ Na giáo
      Tôn giáo để lý giải con người từ đâu ra và sẽ đi về đâu sau cái chết.
      Ấn Độ giáo chia xã hội ra 4 đẳng cấp. Con người sinh ra đã thuộc về một đẳng cấp nào đó, mặc định là tín đồ và chịu sự chi phối của tôn giáo mà không cần lễ chứng nhận là tín đồ như lễ “Quy Y” trong Phật giáo hay lễ “Bap-têm” trong Thiên Chúa giáo.
      Nền tảng giáo lý của Ấn giáo là Luân hồi, là Nhân quả, gọi chung là “Nghiệp”. Con người bị quẩn chặt trong vòng quay của bánh xe luân hồi hàng ngàn, hàng vạn kiếp. Đầu ra của cửa sinh tốt xấu phụ thuộc vào chất lượng đầu vào của tử (nhân quả).
      Ấn giáo có giải thoát khỏi luân hồi, nhưng rất xa vời, đặc biệt với những người đang ở đẳng cấp thấp. Họ KHỔ, và sẽ còn KHỔ bao vạn kiếp nữa ? Rất mù mịt!
      Đạo Kỳ Na và Đạo Phật sinh ra từ Ấn giáo, có nhà nghiên cứu đã viết: “Đạo Phật là đứa cháu ngoại của Ấn giáo”. Kỳ Na giáo, Phật giáo tìm ra “một con đường” “đi tắt” đến giải thoát.
      Để giải thoát, Kỳ Na giáo tu theo cách cực đoan nhất, chối bỏ tất cả. Phật giáo chọn con đường “trung đạo”.
      Không có Ấn giáo thì không có Kỳ Na giáo và Phật giáo.

      Ảnh tượng Sư tổ sáng lập Kỳ Na giáo - ngài sinh năm 599TCN, trước Thích Ca Mâu Ni 19 năm, cũng là hoàng tử một tiểu quốc gần tiểu quốc mà Phật sinh ra. Một trong 2 nhánh Kỳ Na giáo các nhà tu sống loã thể, không mặc quần áo.
*
*        *
      (theo tác giả Richard Holloway trong sách "Lược sử tôn giáo" - nxb Thế giới)
      Giống Phật giáo, Kỳ-na giáo cũng là một câu trả lời dành cho câu hỏi mà Hindu giáo đã đặt cho nhân loại. Nếu quả thật sự tồn tại hiện thời của ta chỉ là kiếp sống gần nhất trong vô vàn kiếp do nghiệp đã đưa đẩy ta vào vòng đầu thai, thế thì làm cách nào ta giải phóng được chính mình và thoát đến một trạng thái gọi là Niết bàn? Niết bàn, hay Nirvana, là một từ tiếng Phạn nghĩa là “bị thổi tắt như một ngọn nến". Người ta đạt được nó khi linh hồn đã thoát ra khỏi luân hồi. Câu trả lời của đạo Phật là tìm Trung Đạo đi giữa các cực đoan. Kỳ-na giáo đi theo hướng ngược lại: nó chọn cách cực đoan nhất mà con người có thể hình dung được, con đường của sự tự chối bỏ đầy khắc nghiệt. Lý tưởng cao nhất của nó là các tín đồ cam kết thực hành sallekhana và nhịn đói đến chết.
      Bản thân từ Kỳ-na xuất phát từ một động từ trong tiếng Phạn với ý nghĩa là “chinh phục", ám chỉ cuộc chiến mà các tín đồ Kỳ- na khỏi lên chống lại bản chất của chính mình, từ đó đạt tới giác ngộ, mang lại sự cứu rỗi cho linh hồn.
      Trong truyền thống của Kỳ-na giáo, hai mươi bốn vị jina, nghĩa là “người chiến thắng”, đã chinh phục được các ham muốn của mình để đạt đến trạng thái giác ngộ. Họ còn được biết đến như là các tirthankara, nghĩa là "những người vượt qua”, vì họ có khả năng dẫn dắt các linh hồn băng qua dòng sông sinh tử luân hồi để đến được bờ cứu rỗi bên kia. Vị cuối cùng trong số các tirthankara ấy thường được cho là người sáng lập của Kỳ-na giáo có tên là Vardamana, dù ngài còn được gọi là Mahavira, tức “anh hùng vĩ đại”. Lịch sử cho ta biết ngài sinh vào khoảng năm 599 TCN ở lưu vực sông Hằng phía Đông Ấn Độ, cũng là vùng hoàng tử Siddhartha Gautama được sinh ra, sau trở thành Phật.
      Ngoài vị trí địa lý và niên đại, Mahavira có nhiều điểm chung khác với Đức Phật. Ngài cũng là một hoàng tử. Ngài cũng đau đáu với vấn đề khổ đau và nguyên nhân gây khổ. Ngài cũng đã từ bỏ cuộc sống phú quý để đi tìm giác ngộ. Và cũng như Phật, ngài thấy ham muốn là gốc rễ của khổ đau. Con người đau khổ vì họ thèm khát những cái họ không sở hữu; rồi ngay khi có được cái họ say mê, họ lại khao khát cái khác nữa. Các ham muốn gây ra khổ đau như vậy nên chỉ có sự đoạn diệt ham muốn mới có thể cứu được chúng ta. Cách Mahavira tiến hành dập tắt ham muốn đã cho thấy ngài là một nhân vật quyết liệt đến thế nào. Ngài cho rằng để thoát khỏi bánh xe luân hồi, chỉ có cách tránh ác, làm thiện. Cũng giống Phật, ngài thích đưa ra các danh sách và đã cô đọng phương pháp của mình thành Năm Điều Răn, hay Ngũ giới: không giết hay làm hại bất cứ sinh linh nào; không trộm cắp; không nói dối; không tà dâm, phóng túng; không tham đắm thứ gì.

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn