
Bản dịch cuốn “Hoạch Trạch Nhữ tộc phả”
(Bản lưu tại Viện nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu A.677; MF.1484.)
Bản dịch phần thế các đời: Bắt
đầu từ Cựu truyền, thủy tổ/đời 1, đến đời 5 – Bản chữ Hán từ trang 5 đến trang 10.
(Tr. 5) 汝族世系
舊傳本派原貫先明縣安子下社黎光順四年乙丑科進士户部尚書後為福神加封剛正博達大王之苗裔大王諱文蘭始祖始移居耒陽社東村.
始祖陸岸縣知縣汝貴公字玄明今塟在耒陽社瑪官處.
祖姒武貴氏號慈行今墓在耒陽社瑪放處.
鼻祖歷任長安北河府知府奉攽王傳公端義子汝公字淡軒諱川今墓在瑪放處.
祖姒阮貴氏號莊順墓處今未詳.
(tr. 6) 生下三男長膠水縣知縣公 次美質公 次慈好公 次皆無傳.
按我祖微時從師長安道经同春坊一日憇芙留店得遺槖一箇懷歸行...寓所披見黃金十鎰有字標題侍物衙門承領官金造作貢物即披衣復至得金處坐半晌間見一婦人前來啼哭具言伊夫失金已被鉤鎖之事相問得情即以金還其人不勝感謝闻者莫不驚異於是侍物具啓洞達上加褒獎錄用歷受長安府知府後特攽王傅公聀子爵再攽監守公庫晚年休置
(tr. 7)專究天文地理之學嘗囑子孫百歲後塟在私田十三尺首粘木星開口其後嫡孫纯信公將此田賣與丹鑾社人買主嫌其田窄後有祖墓仍添許錢使别移他處公為利使遂移上後頭他麻處忽遇疾風大雨姑暫塟之晴後復來已見土黃覆滿不意乃是木節结局莫非天意使然其後科甲蟬連丁財興旺肇基于此或者其還金之報歟
三傳膠水縣知縣汝公字善性諱鍾淙丁丑年生壽三十六歲五月十四日忌
(Tr. 8) 祖姒周氏號淑行五月二十日忌塟塢放處
生下=男長字雅直公次侍內文聀歷受清河良才=縣知縣壽文子
四傳官員子字雅直諱治乍丙子年生壽七十歲六月初七日忌塟媽放處
祖她范氏號慈德諱恩庚辰年生壽八十歲二月二十日忌(范公字祈男號福齋妣慈賢夫人之女)生下五男二女長儒生宇纯信第二公承使字文毅第三字法元第四諱玉字福善第五諱朝字福
(Tr. 9)全長女諱三號淑僊次女諱養號凌歌
五傳祖處士封贈特進榮祿大夫太原處賛治承政使司承政使汝公字文毅號真通諱梁六月初一日忌塟永賴縣涇右社圓阜處
祖妣封贈碩人周氏號淑節諱邦七月十一日忌塟瑪豸處
按祖妣顯祖考耒陽千戶蘭溪伯周公宇寬直顯祖妣武氏號慈賢顯考校生字僊遊號通齋妣武氏號慈在。
又按慈在祖妣乃獲澤社天會中庫使武公之孫户部堂典吏文貞伯
(Tr. 10) 武公字明毅妣裴氏號慈良之女

Phiên
âm Hán Việt:
(tr. 5) “Nhữ
tộc thế hệ
Cựu truyền bản phái nguyên quán Tiên Minh huyện, An Tử
hạ xã, Lê Quang Thuận tứ niên, Ất Sửu khoa tiến sĩ Bộ Hộ Thượng thư, hậu vi
phúc thần, gia phong Cương Chính Bác Đạt Đại Vương chi miêu duệ (苗裔con cháu) Đại Vương, húy Văn Lan.
Thủy tổ thủy
di cư Lỗi Dương xã, Đông thôn.
Thủy Tổ Lục Ngạn huyện, tri huyện Nhữ Quý Công, tự Huyền Minh,
kim táng tại Lỗi Dương xã, mả Quan xứ.
Tổ tỉ Vũ Quý
thị, hiệu Từ Hạnh, kim mộ tại Lỗi Dương xã, mả Phóng xứ.
Tị tổ lịch nhậm Trường An Bắc Hà phủ, tri phủ, phụng ban Vương
Truyền Công Đoan Nghĩa tử Nhữ Công, tự Đạm Hiên, húy Xuyên, kim mộ tại mả Phóng
xứ
Tị tỉ Nguyễn
Quý thị, hiệu Trang Thuận, mộ xứ kim vị tường.
(Tr. 6) Sinh
hạ tam nam: trưởng Giao Thủy huyện tri huyện công, thứ Mỹ Chất công, thứ Từ Hảo
công, thứ giai vô truyền.
Án ngã tổ vi
thời, tòng sư Trường An, đạo kinh Đồng Xuân phường, nhất nhật khế Phù Lưu điếm,
đắc di thác nhất cá, hoài quy hành (...) ngụ sở, phi kiến hoàng kim thập dật, hữu
tự tiêu đề thị vật nha môn thừa lĩnh quan kim tạo tác cống vật, tức phi y phục
phục chí đắc kim xứ, tọa bán thưởng gian, kiến nhất phụ nhân tiền lai đề khốc,
cụ ngôn y phu thất kim dĩ bị câu tỏa chi sự, tương vấn đắc tình, tức dĩ kim
hoàn kỳ nhân, bất thắng cảm tạ, văn giả mạc bất kinh dị. Ư thị thị vật cụ khải
động đạt thượng gia, bao tưởng lục dụng, lịch thụ Trường An phủ tri phủ, hậu đặc
ban Vương Phó công, chức Tử tước, tái ban giám thủ công khố, vãn niên hưu trí, (Tr.
7) chuyên cứu thiên văn địa lý chi học, thường chúc tử tôn bách tuế hậu táng tại
tư điền thập tam xích, thủ niêm Mộc tinh khai khẩu. Kỳ hậu đích tôn Thuần Tín
công tương thử điền mại dữ Đan Loan xã nhân, mãi chủ hiềm kỳ điền trạch, hậu hữu
tổ mộ, nhưng thêm hứa tiền sử biệt di tha xứ. Công vi lợi sử, toại di thượng hậu
đầu tha ma xứ, hốt ngộ tật phong đại vũ, cô tạm táng chi, tình hậu phục lai, dĩ
kiến thổ hoàng phúc mãn, bất ý nãi thị Mộc tiết kết cục, mạc phi thiên ý sử
nhiên. Kỳ hậu khoa giáp thiền liên, đinh tài hưng vượng, triệu cơ vu thử, hoặc
giả kỳ hoàn kim chi báo dư.”
Phiên âm Hán
Việt:
“Tam truyền
Giao Thủy huyện, Tri huyện Nhữ công, tự Thiện Tính, húy Chung Tôn, Đinh Sửu
niên sinh, thọ tam thập lục tuế, ngũ nguyệt thập tứ nhật kỵ
(Tr. 8) Tổ tỷ
Chu Thị, hiệu Thục Hạnh, ngũ nguyệt nhị thập nhật kỵ, táng mả Phóng xứ.
Sinh hạ nhị
nam: trưởng tự Nhã Trực công, thứ thị nội văn chức, lịch thụ Thanh Hà, Lương
Tài nhị huyện Tri huyện, Thọ Văn tử.
Tứ truyền
quan viên tử, tự Nhã Trực, húy Trị, Sạ, Bính Tý niên sinh, thọ thất thập tuế, lục
nguyệt sơ thất nhật kỵ, táng mả Phóng xứ.
Cụ bà họ Phạm,
hiệu Từ Đức, húy Ân, Canh Thìn niên sinh, thọ bát thập tuế, nhị nguyệt nhị thập
nhật kỵ (...). Sinh hạ ngũ nam nhị nữ:
Trưởng Nho
sinh tự Thuần Tín, Đệ nhị công thừa sử tự Văn Nghị, Đệ tam tự Pháp Nguyên, Đệ tứ
húy Ngọc tự Phúc Thiện, Đệ ngũ húy Triều, tự Phúc (Tr.9) Toàn. Trưởng nữ, húy
Tam, hiệu Thục Tiên, Thứ nữ húy Dưỡng, hiệu Lăng Ca
Ngũ truyền tổ
xử sĩ, phong tặng Đặc Tiến Vinh Lộc Đại Phu, Thái Nguyên xứ tán trị thừa chính
sứ ty thừa chính sứ, Nhữ công tự Văn Nghị, hiệu Chân Thông, húy Lương, lục nguyệt
sơ nhất nhật kỵ, táng Vĩnh Lại huyện, Kinh Hữu xã, Viên Phụ xứ.
Tổ tỷ phong tặng
Thạc Nhân Chu thị, hiệu Thục Tiết, húy Bang, thất nguyệt thập nhất nhật kỵ,
táng mả Trại xứ.
Án tổ tỷ, hiển
tổ khảo Lỗi Dương xã, Can hộ, Lan Khê Bá Chu công tự Khoan Trực, hiển tổ tỷ Vũ
thị, hiệu Từ Hiền, hiển khảo giáo sinh Tự Tiên Du, hiệu Thông Trai, tỷ Vũ thị,
hiệu Từ Tại.
Hựu án, Từ Tại tổ tỷ nãi Hoạch Trạch xã thiên hội trung khố sứ Vũ công chi tôn, hộ bộ đường điển lại Văn Trinh Bá (Tr.10) Vũ công tự Minh Nghị, tỷ Bùi thị, hiệu Từ Lương chi nữ."
Dịch
nghĩa tiếng Việt:
“Nhữ tộc thế hệ
Cựu truyền, bản phái
nguyên quán xã An Tử hạ, huyện Tiên Minh. Khoa thi Ất Sửu, niên hiệu Quang Thuận
thứ tư triều Lê (1463) có vị tiễn sĩ thượng thư Bộ Hộ, sau được tôn phong là
phúc thần, gia phong Cương Chính Bác Đạt Đại Vương (...), Ngài tên húy là Văn
Lan.
Thủy tổ đầu tiêu di cư đến thôn Đông, xã Lỗi Dương.
Đời thứ 1: Thủy tổ Nhữ Quý công
là tri huyện Lục Ngạn, tự Huyền Minh, hiện an táng tại xứ mả Quan, xã Lỗi
Dương.
Cụ bà là Vũ Quý thị, hiệu Từ Hạnh, hiện
mộ tại xứ mả Phóng, xã Lỗi Dương.
Đời thứ 2: Tị tổ Nhữ công, tự là Đạm Hiên, húy Xuyên,
từng giữ chức tri phủ Bắc Hà, Trường An, được ban Vương Truyền Công, Đoan Nghĩa
tử, hiện mộ tại xứ mả Phóng.
Cụ bà là Nguyễn Quý thị, hiệu là Trang
Thuận, hiện chưa rõ nơi an táng.
Sinh được ba người con trai:
Con trưởng là quan Tri huyện Giao Thủy. Con
thứ hai là Mỹ Chất công. Con thứ ba là Từ Hảo công. Các con thứ đều vô truyền.
Tổ tiên ta khi còn trẻ, theo thầy học ở Trường An. Một hôm đi ngang qua phường
Đồng Xuân, nghỉ chân tại quán Phù Lưu, nhặt được một túi hành lý bị bỏ quên. Mang
về nơi trọ, mở ra thì thấy bên trong có mười lạng vàng, trên đó ghi rõ đây là
vàng của nha môn, lĩnh về để chế tác lễ vật cống nạp.
Ngài lập tức mặc áo, trở lại nơi nhặt được vàng, ngồi đợi một lúc, thì thấy
một người phụ nữ đến khóc lóc, kể rằng chồng mình làm mất vàng nên đã bị bắt
giam. Sau khi hỏi rõ sự tình, ngài liền trả lại vàng cho người phụ nữ đó. Bà ta
cảm kích vô cùng, ai nghe chuyện cũng đều kinh ngạc.
Sau đó, quan phụ trách lễ vật trình bày rõ ràng lên quan trên, nhờ đó, Ngài
được khen thưởng và bổ dụng. Từ đó, ngài trải qua nhiều chức vụ, trở thành tri
phủ Trường An, sau đó được phong tước Vương phó công..., rồi được giao nhiệm vụ
trông coi công khố. Khi về già, nghỉ hưu, Ngài chuyên tâm nghiên cứu thiên văn
địa lý. Ngài thường dặn dò con cháu rằng, khi mất trăm năm, hãy chôn cất Ngài tại
mảnh đất riêng, rộng mười ba thước, đầu hướng về sao Mộc.
Sau này, cháu nội đích tôn là Thuần Tín công đã bán mảnh đất này cho người trong xã Đan Loan. Người mua chê đất hẹp, phía sau lại có mộ tổ, nên đã trả thêm tiền để dời mộ đi nơi khác. Vì lợi ích, ngài đã di dời mộ lên phía sau, đến chỗ đất hoang, không ngờ gặp phải gió lớn mưa to, tạm thời chôn cất, sau khi trời quang trở lại, thấy đất vàng phủ đầy, không ngờ đó là mạch đất tốt, chẳng phải ý trời sao? Từ đó, con cháu liên tiếp đỗ đạt, đinh tài hưng vượng, cơ nghiệp khởi nguồn từ đây, có lẽ là sự báo đáp cho việc trả lại vàng năm xưa.
“Đời thứ 3: Nhữ Công, làm Tri huyện huyện Giao Thủy,
tự Thiện Tính, húy Chung Tôn, sinh năm Đinh Sửu. Hưởng dương 36 năm, giỗ ngày
14 tháng 5.
Cụ bà họ Chu, hiệu Thục Hạnh, giỗ ngày 20 tháng 5, mộ táng xứ mả Phóng.
Sinh được hai con trai: trưởng nam tự Nhã Trực, thứ nam làm văn chức (nhân viên, quan văn) trong triều, từng giữ chức Tri huyện hai huyện Thanh Hà và Lương Tài, tước Thọ Văn tử.
Đời thứ 4: quan viên tử (con trai của quan viên),
tự Nhã Trực, húy Trị, húy Sạ, sinh năm Bính Tý, thọ 70 tuổi, giỗ ngày 7 tháng
6, mộ táng tại xứ mả Phóng.
Cụ bà họ Phạm, hiệu Từ Đức, húy Ân, sinh năm Canh Thìn, thọ 80 tuổi, giỗ ngày
ngày 20 tháng 2 (...). Sinh được năm con trai và hai con gái:
Trưởng nam là nho sinh tự Thuần Tín.
Thứ nam (đệ nhị) làm quan thừa sử, tự Văn Nghị.
Thứ nam (đệ tam) tự Pháp Nguyên.
Thứ nam (đệ tứ) húy Ngọc, tự Phúc Thiện.
Thứ nam (đệ ngũ) húy Triều, tự Phúc Toàn.
Trưởng nữ húy Tam, hiệu Thục Tiên.
Thứ nữ húy Dưỡng, hiệu Lăng Ca.
Đời thứ 5: Cụ tổ Nhữ công là một xử sĩ (bậc có
học nhưng ở nhà, không đi thi, không làm quan), tự Văn Nghị, hiệu Chân Thông,
húy Lương. Được phong tặng Đặc Tiến Vinh Lộc Đại Phu, tặng chức Tán trị Thừa
Chính Sứ ở ty Thừa Chính Sứ thuộc xứ Thái Nguyên. Giỗ ngày 01 tháng 6, an táng
tại xứ Viên Phụ, xã Kinh Hữu, huyện Vĩnh Lại.
Cụ tổ bà họ Chu, được phong tặng là Thạc Nhân, hiệu Thục Tiết, tên húy là Bang.
Giỗ ngày 11 tháng 7, an táng tại khu Mả Trại.
Theo ghi chép, Cụ tổ bà (họ Chu) có: Ông nội Chu công, xã Lỗi Dương, từng giữ
chức Thiên hộ (chức quan võ, giữ việc phòng vệ địa phương), tự Khoan Trực, tước
Lan Khê Bá; Bà nội họ Vũ, hiệu Từ Hiền; Cha là giáo sinh, tự Tiên Du, hiệu
Thông Trai; Mẹ họ Vũ, hiệu Từ Tại.
Lại theo ghi chép, Cụ bà Từ Tại có: ông nội Vũ công, xã Hoạch Trạch, từng
giữ chức Trung khố sứ Thiên hội; Cha bà tự Minh Nghị, tước Văn Trinh Bá, giữ chức
Điển lại ở Bộ Hộ đường; Mẹ bà họ Bùi, hiệu Từ Lương.”
