Hai cầu thép mang tên linh vật Rồng xây dựng đầu thế kỷ 20


Hai cầu thép mang tên linh vật Rồng xây dựng đầu thế kỷ 20

     Cầu Long Biên (Hà Nội) và cầu Hàm Rồng (Thanh Hóa) – Là hai cây cầu thép, nhịp lớn có kết cấu rất tiêu biểu, mang trên mình nhiều chứng tích lịch sử, rất đáng ghi nhớ trong lịch sử ngành cầu Việt Nam.

     Cầu Long Biên:
Cầu Long Biên, ảnh sưu tầm trên internet

     Cầu Long Biên khởi công ngày 12/9/1898, khánh thành năm 1902, tên khai sinh là cầu Doumer - lấy theo tên của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, người đưa ra ý tưởng xây dựng cầu. Tháng 7/1945, bác sĩ Trần Văn Lai - Thị trưởng Hà Nội thời chính phủ Trần Trọng Kim đã đổi tên là cầu Long Biên. Hãng Daydé & Pillé (Pháp) trúng thầu thiết kế và thi công.

     Cầu dài 1682 m, gồm 19 nhịp dàn thép xe chạy dưới, 02 mố và 18 trụ cầu kết cấu đá xây, móng trụ cầu là giếng chìm. Cầu có một làn đường sắt khổ 1m chạy giữa, hai làn xe cơ giới khổ 2,6m chạy hai bên và ngoài cùng là làn bộ hành.

     Kết cấu nhịp cầu là các dàn thép dài 75m, xen kẽ là nhịp thừa hưởng hai đầu mút thừa (chìa) 27,5m x2 + dầm đeo trên hai đầu mút thừa dài 51,2 m, tổng nhịp dàn này dài 106,2 m. Sơ đồ nhịp: 78,7+ 75+ 106,2+ 75+ 106,2+ 75+ 106,2+ 75+ 106,2+ 75+ 106,2+ 75+ 106,2+ 75+ 106,2+ 75+ 106,2+ 75+ 78,7 = 1682m. Đây là kết cấu nhịp hiện đại ở thời điểm đó.

     Cầu sử dụng hết 30.000 m3 đá, 5300 tấn thép. Giá dự thầu là: 5.116.334 francs, Tổng chi phí thực tế là: 6.200.000 francs (đầu tư giai đoạn 1, chưa có hai làn xe ô tô).


Bản vẽ thiết kế cầu Long Biên

Bản vẽ thiết kế cầu Long Biên

     Hệ gối cầu và khe co giãn tại đầu dàn mút thừa cho dàn (dầm) treo dài 51,2m cũng là một một hạng mục khó khăn, phức tạp mà các kỹ sư thiết kế - thi công phải thực hiện (ảnh).

Vị trị gối tại đầu mút thừa
     Theo các tư liệu, toàn bộ 19 nhịp dàn thép được lắp ráp trên hệ đà giáo. Các biện pháp khác như: Lắp hẫng, lao dọc, chở nổi… không phù hợp và không được áp dụng khi xây dựng cầu Long Biên.
Ảnh các dàn cầu Long Biên được lắp ráp trên đà giáo. Ảnh sưu tầm trên internet

      Với 18 móng giếng chìm sâu 30m tính từ mực nước thấp nhất, thi công theo phương pháp thùng chụp hơi ép trên dòng sông Hồng hung dữ, địa chất phức tạp cũng là một kỳ tích của kỹ sư Pháp và nhân công, thợ cầu Việt Nam. Hồi ký của Paul Doumer đã ghi lại: khâm phục những người thợ Việt Nam làm việc dưới độ sâu như vậy mà không sợ hãi, không một lời phàn nàn. Sau 4 giờ làm việc trong điều kiện khắc nghiệt dưới lòng sông (trong các thùm chụp bơm áp suất cao), các tốp thợ từ từ lên mặt đất và được các nhóm khác xuống thay. Họ được đưa về lán trong công trường, được bồi dưỡng thuốc bổ và được xoa bóp, luôn có một bác sĩ theo dõi sức khỏe của họ. Qua hồi ký của Paul Doumer, chúng ta thấy một quy trình thi công, an toàn đã được áp dụng nghiêm ngặt tại công trình xây dựng cầu Long Biên. Dẫu vậy, những thiệt hại về con người vẫn xảy ra, một số nhân công người Việt đã chết do tai nạn lao động… nhưng công sức, các đóng góp và những kinh nghiệp rút ra sau các tai nạn đã giúp công trình hoàn thành thì còn mãi cùng với tuổi thọ hơn trăm năm qua của cầu Long Biên.

     Cầu Long Biên được đầu tư theo hai giai đoạn. Đưa vào khai thác năm 1902, cầu mới chỉ có đường sắt và bộ hành. Hai mươi năm sau, cầu được đầu tư giai đoạn 2: thi công lắp ráp hai làn xe ô tô khổ 2 m và hoàn chỉnh các hạng mục đường lên xuống. Cầu hoàn tất toàn bộ công việc xây dựng, chính thức khánh thành vào ngày 25/4/1924.

              Ảnh khánh thành giai đoạn 2 ngày 25/4/1924: thi công hai làn ô tô và lối lên xuống

     Cầu Long Biên quy mô hoành tráng, đồ sộ, dài tuốt tắp bắc qua dòng Sông Cái chạy quanh thủ đô ngàn năm văn hiến. Thiết kế tổng thể đẹp, hệ thanh biên trên dàn thép nhấp nhô như các đợt sóng nước. Cầu tạo điểm nhấn kiến trúc, thu hút nhiều các họa sĩ đến ký họa và để lại nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Cũng có một số bức tranh, bức họa đường phố vẽ cầu Long Biên tạo cảm giác hụt hẫng đôi chút cho các nhà làm cầu, khi các họa sĩ do vô tình đã vẽ thiếu thanh dàn đứng phía trên đỉnh trụ - một thanh dàn “quan trọng” bậc nhất, rất đặc thù trong hệ dàn thép cầu Long Biên vì nó phải gánh toàn bộ tải trọng nhịp (phản lực gối). 

Bản vẽ thiết kế cầu Long Biên: Thanh dàn đứng phía trên gối chịu toàn bộ phản lực gối

     Sau cầu Long Biên, với các hệ dàn liên tục hay mút thừa các nhà thiết kế đông tây không còn “ưa” dùng hệ dàn có thanh đứng kiểu này nữa, thay vào đó, tại vị trí phía trên gối cầu sẽ có hai thanh xiên chịu nén và một thanh biên trên chịu kéo được triệt để áp dụng.

     Tôi nhớ, cách đây 30 năm, trên giảng đường Đại học xây dựng Hà Nội, khi giới thiệu về các cầu lớn của VN, thầy Phạm Duy Hòa chưa nhắc đến cầu Chương Dương, sinh viên hỏi, Thầy nói: À, về kết cấu nếu so với cầu Long Biên, cầu Chương Dương còn “thua” ở hai cái đầu mút thừa...  Một so sánh khá thú vị.

     Cầu Long Biên đã hơn trăm năm gánh vách nhiệm vụ là huyết mạch giao thông. Tồn tại cùng lịch sử dân tộc trong suốt thế kỷ 20 đầy biến động, cầu mang trên mình những giá trị văn hóa và là chứng tích lịch sử.

     Cầu chứng kiến đoàn quân và dân Thủ Đô sau 60 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, sáng tạo “Cảm tử cho Tổ Quốc quyết sinh”, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho cơ quan đầu não, bảo vệ cho kế hoạch tản cư… đã bí mật rút khỏi Hà Nội, “hẹn mai về lấy lại Thủ đô”:

  “Nhớ một đêm nào
 Đoàn quyết tử rút khỏi chân cầu
 Để lại sau lưng phố phường cháy lửa
Chỉ xuống dòng sông nước đỏ
Hẹn mai về lấy lại Thủ đô!

Chúng ta về lấy lại Thủ đô
Cầu trầm lặng nhớ bao người ngã xuống
Buổi nào Thăng-long rũ tung xiếng nặng…
Dòng sông dài như tình yêu của ta.”

(Trên cầu Long Biên – thơ Lưu Quang Vũ)

     Long Biên cũng là cây cầu đã “tiễn đưa” đoàn quân viễn chinh Pháp lặng lẽ rút khỏi Hà Nội để về nước sau thất bại nặng nề tại Điện Biên Phủ, buộc Pháp phải ký hiệp định Genève: đình chiến, công nhận độc lập, chủ quyền cho Việt Nam.   

                              Quân Pháp rút qua cầu Long Biên về nước năm 1954. Ảnh sưu tầm
     Trong chiến tranh chống Mỹ phá hoại, cầu Long Biên là biểu tượng kiên cường, hiên ngang của người Hà Nội trước bom đạn.
     Tồn tại qua hai thế kỉ, Cầu Long Biên nay đã già nua, chắp vá, nhưng vẫn tiếp tục gồng mình ngày đêm cho các chuyến tầu, cho người và hàng hóa qua lại hai bờ sông Hồng.
Bên kia cầu, chùa Bồ Đề như chiếc nấm linh chi cổ đại
Cầu Long Biên gù lưng người phu già
Sớm chiều cõng chuông qua sông
Nhắc nhở lẽ huyền vi Hà nội

Chiếc cầu đi suốt đời ta…
Đầy vết dao binh lửa
Dạy ta vượt lên sóng gió
Làm người
Ba mươi năm
Ta lại đạp xe qua chiếc cầu cũ kỹ
Trong sớm thu dịu ngọt
Nghe sông Hồng vặn mình trong cát
Gió rít mỗi trụ cầu
Thấy màu mắt những anh hùng trong thép
Thấy những sóng người dào dạt
Trùng trùng lớp lớp đi xa

Ta muốn nói lời chia tay
Với nghìn năm đang qua
Với Thăng Long từng ngày trẻ lại
Với chiếc cầu từng giờ hấp hối
Đang giang tay đón những người đi bộ cuối cùng qua sông

Rồi một ngày đẹp trời
Hà Nội sẽ tiễn người vào lịch sử
Tiếng chuông vang vang khắp bến Bồ Đề”
(Cầu Long Biên - thơ Nguyễn Khoa Điềm)
    Cầu Long Biên và mọi cây cầu như một cơ thể sống: sinh ra, làm việc và mất đi. Tôi mong một ngày gần đây, một cây cầu mới hiện đại hơn, hoành tráng hơn sẽ được xây dựng gần sát với cầu Long Biên. Ngoài gánh vách nhiệm vụ cao cả mà cầu Long Biên bàn giao cho, còn đảm đương thêm các công năng vận tải của hiện tại và tương lai 50, 100 năm sau. Khi đó, cầu Long Biên sẽ chính thức được “nghỉ hưu”. Các nhịp dàn quân dụng T66 và các trụ cầu được xây chen chắp vá sẽ được phá bỏ. Phần cầu còn nguyên vẹn phía bờ Hà Nội sẽ được bảo dưỡng, sơn sửa lại để tồn tại lâu dài, đóng vai trò là một bảo tàng, lưu giữ một di sản văn hóa, một chứng tích lịch sử của Thủ đô Hà Nội. Không còn chức năng vận tải giao thông, nhưng cầu Long Biên vẫn sống mãi và trở thành một điểm du lịch, một nơi “cheek in” thú vị của mọi người.

Cầu HÀM RỒNG (Thanh Hoá):
     Khánh thành năm 1904, là cầu hỗn hợp đường sắt, đường bộ bắc qua sông Mã. Kết cấu nhịp là vòm thép 3 khớp, dài 160 m (quá “khủng” ở thời điểm đó, so sánh: nhịp dàn cầu Long Biên là 75m, nhịp vòm giữa cầu Đông Trù là 120 m, nhịp vòm cầu Hoàng Văn Thụ HP khánh thành năm 2019 là 200m...).
     Căn cứ điều liện địa hình, địa chất, thủy văn vị trí xây dựng cầu, các nhà thiết kế đã lựa chọn cầu vòm một nhịp duy nhất, không trụ cầu ngoài sông. Mố phía tả ngạn đặt ngay chân núi đá Hàm Rồng. Cầu bị đánh sập năm 1947 để ngăn chặn quân Pháp tái chiếm, sau đó không được khôi phục lại.
     
Cầu Hàm Rồng. Ảnh sưu tầm trên internet

     Nhịp vòm thép “khủng” này được thi công bằng hệ thiên tuyến. Khâu đóng khớp giữa, hợp long vòm là quan trọng và cực khó khăn với loại kết cấu này. Theo sách “Mỹ học Cầu Đường” (tác giả PGS.TS Đào Xuân Lâm, GS.TS Đỗ Bá Chương), ông thợ cả người Việt tên Viên đã thực hiện công đoạn này.

     Theo thi sĩ Tản Đà, cầu được sơn mầu đỏ, rất ấn tượng:

 “Ai xui ta nhớ Hàm Rồng

Muốn trông chẳng thấy cho lòng khôn khuây…

Sơn cầu còn đỏ chưa phai?

Non xanh còn đối? sông dài còn sâu?

Còn thuyền đánh cá buông câu?

Còn xe lửa chạy trên cầu như xưa?...

Ước sao sông cứ còn sâu

Non xanh còn cứ giữ mầu xanh xanh!

Khung cầu còn cứ như tranh

Hoả xa cứ chạy, bộ hành cứ đi!”

     (Nhớ cảnh cầu Hàm Rồng)

     Trong chiến tranh chống Mỹ, với chức năng huyết mạch giao thông, cầu Hàm Rồng khi đó là dàn thép quân dụng hai nhịp trở thành địa điểm bắt phá ác liệt của máy bay Mỹ. Cầu Hàm Rồng ghi đậm chứng tích lịch sử chống ngoại xâm của người dân Thanh Hóa

     Cầu Long Biên và Hàm Rồng là hai cây cầu thép nhịp lớn xây dựng đầu thế kỉ 20, quy mô đồ sộ, kết cấu nhịp tiêu biểu: Dàn thép nhịp lớn có đầu chìa, hệ dầm (dàn) treo, vòm ba khớp nhịp lớn; Các biện pháp thi công như: móng giếng chìm hơi ép, lắp ráp nhịp dàn thép trên đà giáo, sử dụng dây thiên tuyến v.v… Mặc dù cầu do người Pháp xây dựng, nhưng cầu có sự tham gia của đông đảo nhân công, thợ người Việt Nam, trải qua hàng trăm năm phục vụ vận tải giao thông và chiến tranh, cầu mang trên mình những dấu ấn văn hóa và chứng tích lịch sử của dân tộc. Hai cây cầu mang tên loài linh vật Rồng linh thiêng theo tín ngưỡng người Việt này là những công trình rất đáng nghi nhớ trong lịch sử ngành cầu Việt Nam.

                            Nhữ Đình Văn – CIENCO1


Tài liệu tham khảo:

 Mỹ học Cầu Đường - PGS.TS Đào Xuân Lâm, GS.TS Đỗ Bá Chương, Nhà xuất bản Giao thông vận tải.

-          Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội (1875-1945), Nhà xuất bản Thế giới.


1 Nhận xét

Mới hơn Cũ hơn