Tên cầu Long Biên 龍 編 ?

      Tên cầu Long Biên?,  Long Biên 龍 編là từ gốc Hán, từ Hán-Việt, nghĩa là “rồng giao nhau” (龍 long - con Rồng; 編 biên - đan, bện, tết...), tên cầu do Thị trưởng thành phố Hà Nội thời chính phủ Trần Trọng Kim (3/1945 - 8/1945) là ông Trần Văn Lai đặt. Tên trước đó là cầu Doumer, mang tên toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, người đề xuất và trực tiếp tổ chức thiết kế, xây dựng cầu. Long Biên 龍編 là lấy theo tên thủ phủ của quận Giao Chỉ được lập ra từ thời Bắc thuộc, thời kỳ Tây Hán (202 TCN – 9), trị sở Long Biên khi đó ở phía Tả ngạn sông Hồng. Đã có nhiều năm tôi hiểu Long Biên 龍 邊 có hàm ý là “rìa/mép của Thăng Long” với chữ “biên 邊” thuộc bộ “xước”, đó là cách hiểu chưa đúng.
      Cầu dài 1682 m, gồm 19 nhịp dàn thép xe chạy dưới, 02 mố và 18 trụ cầu kết cấu đá xây, móng trụ là giếng chìm sâu 30m (thi công theo phương pháp giếng chìm hơi ép). Cầu có một làn đường sắt khổ 1m chạy giữa, hai làn xe cơ giới khổ 2,6m chạy hai bên và ngoài cùng là làn bộ hành. Kết cấu nhịp cầu là các dàn thép dài 75m, xen kẽ là nhịp dài 106,2m với ba phần: thừa hưởng hai đầu mút thừa (chìa) 27,5mx2 và dầm đeo 51,2m. Đây là kết cấu nhịp hiện đại ở thời điểm đó. Cầu Long Biên được phân kỳ đầu tư. Khi hoàn thành năm 1902 chỉ gồm đường sắt và bộ hành, những năm 1923, 1924 xây dựng giai đoạn 2, hoàn thành ngày 25/4/2024 gồm bổ sung hai làn đường ô tô hai bên, mỗi làn 2,6m.
Một số hình ảnh về thiết kế, thi công cầu Long Biên
Ảnh copy từ sách "Kiến trúc các công trình XD tại Hà Nôi 1875 - 1945 và Chụp tại
Triển lãm: “Cầu Long Biên - Chứng nhân lịch sử” nhân kỷ niệm 120 năm khánh thành








ĐV

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn