
Tiếng Việt, cách sử dụng các khái niệm như “chữ”, “từ”, “âm tiết” có sự khác biệt nhất định giữa cách dùng thuật ngữ và cách nói trong giao tiếp thông thường.
CHỮ: theo nghĩa chuyên môn ngôn ngữ học, “chữ” được dùng để chỉ “hệ thống ký hiệu bằng đường nét đặt ra để ghi tiếng nói”, như ta thường nói chữ Quốc ngữ, chữ Latin, chữ Sanskrit (chữ Phạn)… Đó là hệ thống mẫu tự riêng biệt cho mỗi ngôn ngữ.
TỪ: “từ” là “đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa hoàn chỉnh, dùng để đặt câu”, chẳng hạn “nông dân” (2 âm tiết), “xây” (1 âm tiết), “nhà hộ sinh” (3 âm tiết). Từ là đơn vị sẵn có trong ngôn ngữ. Từ có thể làm tên gọi của sự vật (danh từ), chỉ các hoạt động (động từ), trạng thái, tính chất (tính từ)... Từ là công cụ biểu thị khái niệm của con người đối với hiện thực.
ÂM: hoặc toàn thể những âm không thể tách khỏi nhau, ứng với một khái niệm hoặc thực hiện một chức năng ngữ pháp. Ví dụ: ăn, tư duy, đường chim bay, và, sở dĩ...
Âm tiết là “đơn vị phát âm nhỏ nhất trong ngôn ngữ”.
Trong tiếng Việt, rất nhiều từ đơn có ranh giới trùng với ranh giới âm tiết (còn được gọi là “tiếng”, ví dụ: Câu thơ có sáu tiếng (= 6 từ)).
Nhưng trong cách nói hàng ngày, người Việt vẫn dùng “chữ” để chỉ từ hoặc tiếng đó. Chẳng hạn, ta vẫn nói: Anh cứ viết dăm bảy chữ vào đây cho yên tâm; Lá cờ thêu sáu chữ vàng; Một chữ bẻ đôi nó còn chưa biết…
“Chữ” cũng còn là tên gọi thông thường của từ ngữ gốc Hán. Ví dụ: Nhân Tết đến, nhờ bác viết tặng cho em mấy chữ “Tâm”, “Trí”, Phúc”; Ngồi bắc chân chữ Ngũ; “Lá trúc che ngang mặt chữ Điền” (Hàn Mặc Tử)…