Chức và tước của Tiến sĩ Nhữ Công Tung

Tượng thờ Tiến sỹ Nhữ Công Tung - thôn Nhữ xá, xã Thái Hoà, huyện Bình Giang, Hải Dương
Anh trưởng một dòng họ Nhữ ở thôn Nhữ Thị có đề nghị tôi giải thích, cắt nghĩa các chức tước của Tiến sĩ Nho học Nhữ Công Tung. Theo sách "Vũ Trung tùy bút" của Phạm Đình Hổ, đã ghi chép: “Nhữ Công Tung làm quan ở triều đại nhà Mạc và nhà Lê chức thượng thư, tiền tham chiểu quân vụ, đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, thiếu bảo; thăng đến thiếu phó, trụ quốc trí sĩ”.
Giải thích:
(1) Thượng thư 尚書 : tương đương với chức Bộ trưởng ngày nay, tuy nhiên, ngày xưa chỉ co 6 bộ (bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ Hộ, Bộ Hình, Bộ Binh, Bộ Công), mỗi bộ có đứng đầu là Thượng Thư, và hai chức phó theo thứ tự từ cao xuống thấp là Tả Thị Lang, và Hữu Thị Lang. Thượng thư có tước Nhị phẩm.

Cụ Nhữ Công Tung tư liệu không ghi rõ là cụ đã làm những Bộ nào trong lục bộ.

Lưu ý là Bộ Binh, hay Binh Bộ không tương đương chức Bộ trưởng quốc phòng ngày nay, do là quan văn, Bộ Binh chỉ lo các công việc về binh nhung (vũ khí, lương thực, trang bị, tuyển quân...) tức những công việc dân sự phục vụ quân sự. Binh Bộ Thượng thư không phải là quan võ, không có quân hàm, quân hiệu như Bộ trưởng quốc phòng hiện nay. Trực tiếp cầm quân là các quan võ, xưa quân đội trung ương có 5 cánh quân, đứng đầu mỗi cánh quân là các Tả Đô đốc – Cụ Nhữ Công Toản/ Đình Toản cũng có gần 10 năm làm tướng, chức Tả Đô đốc – chỉ huy một trong 5 cánh quân. Thống lĩnh toàn quân là Chúa Trịnh.

(2) Tiền "Tham chiếu quân vụ": là chức vụ tham mưu, tư vấn về quân sự, do một quan văn đảm nhiệm. Chức này chỉ có khi tham gia một chiến dịch quân sự, một trận đánh.

(3) “Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu” là hàm tản văn ban cho các quan văn có tước từ Tòng nhất phẩm trở lên (bất cứ ai tước Nhất phẩm thì đều được ban hàm tản văn này).

(4) “thiếu bảo”, “thiếu phó”: Là các chức thuộc Tam thiếu (thiếu phó, thiếu bảo, thiếu úy) – Tam thiếu là chức quan đại thần quân cơ – tước tòng nhất phẩm. Cụ Công Tung được phong “thiếu phó”.

“Tam thiếu” đứng sau “Tam thái” – cả hai “tam thái/thiếu” đều là các đại thần quân cơ. Cụ Nhữ Đình Hiền được phong Thái phó, Thọ Quân Công. Cụ Nhữ Đình Toản cũng được phong “thái bảo”.

(5) “Trụ Quốc trí sĩ” theo nhà sử học Đỗ Văn Ninh trong sách quan chế, “Trụ quốc Thượng tướng quân” là hàm tản văn, phong cho quan võ hàm nhất phẩm (tả hữu đô đốc trở lên), tương đương với hàm “Đặc tiến Kim tử Vinh lộ Đại phu” bên quan văn. Cụ Công Tung được phòng “Trụ quốc trí sĩ” tức được gia phong khi đã về hưu, vậy là cuối đời cụ có làm quan võ. Cụ Nhữ Đình Toản cũng được phong hàm tản văn là “Trụ quốc Thượng tướng quân” khi còn đương chức Tả Đô đốc.

(6) Về chức “Thượng thư Bộ Hộ” của cụ Nhữ Văn Lan: Bộ Hộ tương đương với các chức Bộ trưởng của gộp các bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và môi trường, Bộ kế hoạch và Đầu tư, Bộ công thương và Bộ Nông nghiệp (Bộ to thứ 3 sau bộ Lại, Bộ Lễ, đứng trên bộ Hình, Bộ Binh, Bộ Công) – Bộ Hộ quản lý các công việc: Tài chính, thuế khóa, ruộng đất, tiền tệ, kho tàng, lương thực và các vật phẩm khác.

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn