Lê triều Hộ Bộ Thượng thư Nhữ Tướng Công phả lục - Nhữ Đình Văn dịch

 

THẦN TÍCH XÃ AN TỬ HẠ

黎朝户部尚書汝相公譜錄 LÊ TRIỀU HỘ BỘ THƯỢNG THƯ NHỮ TƯỚNG CÔNG PHẢ LỤC 

戶部尚書汝相公諱萊字蘭剛正博達福神 Hộ Bộ Thượng thư Nhữ Tướng Công, húy Lai, tự Lan Cương chính, Bác đạt phúc thần

Thần tích được chép trong tư di sản Hán Nôm có tên: “建安省 先郎縣 漢南總社神蹟 Kiến An tỉnh, Tiên Lãng huyện, Hán Nam tổng, các xã thần tích” trang 12(a,b) đến 15(a,b), lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu lưu trữ AE A.12/18.

Thần tích do Hàn Lâm viện, Đông Các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc thứ nhất (1572), triều vua Lê Anh Tông (1532 – 1573). Bản di sản Hán Nôm thần tích được sao chép lại thời Nguyễn, khi đã thành lập tỉnh Kiến An.

Người dịch và biên khảo: Nhữ Đình Văn

Nội dung thần tích Nhữ Tướng công

黎朝户部尚書汝相公譜錄

海陽道 安子下庄 有一人 詩書 孝悌持家 名寔太婆([1])琴瑟好合 家素清貧 夫婦一般忠厚 常構一小寮於路旁 𦳃木之側賣水與芙[2]為生涯之計 素是積德行仁 三生香 一枕風流 綽綽乎有餘裕矣 此地皆称其為積善之家 後世必有興矣一夜大風勃起 𦳃[3]木傾頹明日太婆早出 執得黄金一釜[4] 將回以告汝翁 汝翁開而觀之 見黃金滿滿在此 又依前封入 不取一毫 别置

Phiên âm:
Lê triều Hộ Bộ Thượng thư Nhữ Tướng công phả lục.
Hải Dương đạo, An Tử Hạ trang, hữu nhất nhân, thi thư xử thế, hiếu đễ trì gia, tính Nhữ, danh Thực, thái bà (mỗ), cầm sắt hảo hợp, gia tố thanh bần, phu phụ nhất bàn trung hậu, thường cấu nhất tiểu liêu ư lộ bàng, “đa” mộc chi trắc, mại thủy dữ “trầu” (phù lưu) vi sinh nhai chi kế. Tố thị tích đức hành nhân, tam sinh hương hỏa, nhất chẩm phong lưu, xước xước hồ hữu dư dụ hĩ. Thử địa giai xưng kỳ vi “tích thiện chi gia”, hậu thế tất hữu hưng hĩ. Nhất dạ đại phong bột khởi, “đa” mộc khuynh đồi, minh nhật thái bà tảo xuất, chấp đắc hoàng kim nhất phủ, tương hồi dĩ cáo Nhữ ông, Nhữ ông khai nhi quan chi, kiến hoàng kim mãn mãn tại thử, hựu y tiền phong nhập, bất thủ nhất hào, biệt trí cẩn xứ, sổ…

Dịch nghĩa:
Phả lục về Thượng thư Bộ Hộ triều Lê Nhữ Tướng công.
Tại đạo Hải Dương, trang An Tử Hạ có một người sống theo đạo lý lấy thi thư (sách vở) để xử thế, lấy hiếu đễ để giữ nhà, họ Nhữ, tên Thực, vợ chồng sống hòa thuận, gia cảnh thanh bần nhưng tính tình chất phác trung hậu, thường dựng một túp lều nhỏ bên vệ đường cái, cạnh cây đa, bán nước và trầu làm kế sinh nhai. Vốn là người tích đức hành nhân, ba đời hương hỏa, một mối phong lưu, ung dung thư thả. Người đời đều khen là nhà tích thiện, ắt hậu thế sẽ hưng thịnh. Một đêm gió lớn nổi lên, cây đa đổ. Sáng hôm sau, bà vợ ra sớm, nhặt được một nồi chân vàng, liền mang về báo với ông Nhữ. Ông Nhữ mở ra xem, thấy vàng đầy ắp trong đó, liền niêm phong lại như cũ, không lấy một mảy may, rồi đem cất giữ cẩn thận ở chỗ riêng biệt,

()月後見北客数人往來𦳃木傾五六番如有赧赧不平之意公乃呼入問之北客具言我先祖有置黃金一釜於𦳃木之下 我今不遠萬里而來不意𦳃木傾頹為他人所得窃念先祖之物萬無還理故思念纏綿不能返步公乃笑曰想是何物此物亦易見乃設酒筵以待北客將黃金釜還之北客大喜開視見先祖遺來踪跡不差寸許乃置一分以贈公公周辭不受北客留居五六日公皆設待甚厚及北客辭歸留黃金一笏既往公又差家人追而(還之)

Phiên âm:
(sổ) nguyệt hậu, kiến Bắc khách sổ nhân vãng lai đa mộc khuynh xứ ngũ lục phiên, như hữu noản noản bất bình chi ý. Công nãi hô nhập vấn chi, Bắc khách cụ ngôn: “Ngã tiên tổ hữu trí hoàng kim nhất phủ ư đa mộc chi hạ. Ngã kim bất viễn vạn lý nhi lai, bất ý đa mộc khuynh đồi, vi tha nhân sở đắc. Thiết niệm tiên tổ chi vật, vạn vô hoàn lý, cố tư niệm triền miên, bất năng phản bộ.” Công nãi tiếu viết: “Tưởng thị hà vật? thử vật diệc dị kiến.” Nãi thiết tửu yến dĩ đãi Bắc khách, tương hoàng kim phủ hoàn chi. Bắc khách đại hỷ, khai thị kiến tiên tổ di lai tung tích, bất sai thốn hứa, nãi trí nhất phân dĩ tặng công. Công chu từ bất thụ. Bắc khách lưu cư ngũ lục nhật, công giai thiết đãi thậm hậu. Cập Bắc khách từ quy, lưu hoàng kim nhất hốt ký vãng, công hựu sai gia nhân truy nhi (hoàn chi)

Dịch nghĩa:
Vài tháng sau, có mấy người khách phương Bắc qua lại chỗ cây đa đổ năm sáu lần, dáng vẻ bối rối, có điều gì chưa yên. Ông bèn gọi vào hỏi. Khách phương Bắc thưa: “Tổ tiên tôi có chôn một nồi chân vàng dưới gốc cây đa này. Tôi không quản ngại vạn dặm xa xôi đến đây, không ngờ cây đa đổ, vàng đã bị người khác nhặt được. Nghĩ rằng đó là vật của tổ tiên, muôn phần không thể lấy lại được, nên lòng dạ rối bời, không nỡ rời đi.” Ông cười nói: “Tưởng là vật gì! vật ấy cũng chẳng khó tìm.” Bèn bày tiệc rượu đãi khách phương Bắc, rồi trả lại nồi vàng. Khách phương Bắc mừng rỡ, mở ra xem, thấy dấu tích tổ tiên để lại không sai một tấc. Bèn lấy một phần biếu ông, ông nhất mực từ chối. Khách ở lại năm sáu ngày, ông đều tiếp đãi rất hậu. Đến khi khách phương Bắc từ biệt ra về, đã (cố ý) để quên một thoi vàng. Sau khi họ đi, ông lại sai người nhà đuổi theo trả lại.

還之北客以為忠厚底人既行三四日又返回公家塟陰墳一局報恩囑曰此地甚是貴局繼世公卿 又墳前有王字 後可發血食神 但嫌拔龍之地宜戒後世子孫相衰之日則移居他地又繼大 富貴矣 事訖北客辭歸後人有詩咏云

既能積善又辭金   真是好人又好心

他日公卿相繼進   此時當有幾斤金

公行此地方得百日之後常夢見一兒童従天而下立於床頭自願為子與誦一詩云

Phiên âm:
hoàn chi. Bắc khách dĩ vi trung hậu để nhân. Ký hành tam tứ nhật, hựu phản hồi công gia, táng âm phần nhất cục báo ân. Chúc viết: “Thử địa thậm thị quý cục, kế thế công khanh. Hựu phần tiền hữu "Vương" tự, hậu khả phát huyết thực thần. Đãn hiềm bạt long chi địa, nghi giới hậu thế tử tôn tương suy chi nhật tắc di cư tha địa, hựu kế đại phú quý hĩ.” Sự cật, Bắc khách từ quy. Hậu nhân hữu thi vịnh vân:
Ký năng tích thiện hựu từ kim,
Chân thị hảo nhân hựu hảo tâm.
Tha nhật công khanh tương kế tiến,
Thử thời đương hữu kỷ cân kim?
Công hành thử địa phương đắc bách nhật chi hậu, thường mộng kiến nhất nhi đồng tòng thiên nhi hạ, lập ư sàng đầu, tự nguyện vi tử. Dữ tụng nhất thi vân:

Dịch nghĩa:
Vị khách phương Bắc cho rằng ông bà là người trung hậu. Đi được ba bốn ngày, khách quay trở lại nhà ông bà, chỉ một huyệt âm phần để báo ơn. Dặn rằng: “Nơi này là thế đất quý, có thể phát nối tiếp làm công khanh. Trước huyệt lại có chữ “vương”, sau này có thể phát làm thần hưởng tế lễ. Chỉ hiềm đây là đất “bạt long” (rồng bay đi), nên nhắc con cháu sau này khi gặp suy vi, thì nên dời đến nơi khác, ắt lại tiếp tục được đại phú quý”. Việc xong, khách phương Bắc từ biệt về. Người sau có thơ vịnh rằng:
Đã hay tích thiện lại từ vàng,
Người sao lòng ngay lại dạ lành.
Ngày sau công khanh liên tiếp tiến,
Bấy giờ vàng ứng mấy mươi cân[5]?
Ông cải táng di cốt vào đất ấy được khoảng trăm ngày, thường mộng thấy một đứa trẻ từ trên trời xuống, đứng ở đầu giường, xin được làm con, và đọc một bài thơ rằng:

予奉皇天許降塵        生扶聖主死扶民

公家福祉従兹始        日既新兮又日新

誦訖又投入太婆胞中公暗想 必有禎祥之兆 我家福地有興皇天所賜 乃鴛鴦同枕鵉鳳成群 自此太婆有孕居期年生下一男耳大面方眉清目秀三庭平滿五岳朝歸生得百日公乃命名呼曰萊公生徇齊長而敦敏日來月往及有七歲乃尋師入學聰明出類頴悟異常千經萬卷精通五典三墳貫徹學力貫歐蘇之力詩才兼李柱之

Phiên âm:
Dư phụng Hoàng Thiên hứa giáng trần,
Sinh phù Thánh Chúa, tử phù dân.
Công gia phúc chỉ tòng tư thủy,
Nhật ký tân hề hựu nhật tân.
Tụng ngật, hựu đầu nhập thái bà bào trung. Công ám tưởng: tất hữu trinh tường chi triệu, ngã gia phúc địa hữu hưng, Hoàng Thiên sở tứ, nãi uyên ương đồng chẩm, loan phượng thành quần. Tự thử Thái bà hữu dựng, cư kỳ niên, sinh hạ nhất nam: nhĩ đại diện phương, mi thanh mục tú, tam đình bình mãn, ngũ nhạc triều quy. Sinh đắc bách nhật, công nãi mệnh danh hô viết Lai công. Sinh tuấn tề, trưởng nhi đôn mẫn. Nhật lai nguyệt vãng, cập hữu thất tuế, nãi tầm sư nhập học. Thông minh xuất loại, dĩnh ngộ dị thường. Thiên kinh vạn quyển, tinh thông ngũ điển, tam phần quán triệt. Học lực quán Âu Tô chi lực, thi tài kiêm Lý Đỗ chi

Dịch nghĩa:
Ta vâng mệnh Trời cao giáng xuống trần,
Sống phò thánh chúa, chết thì phù dân.
Phúc lành gia đình từ đây khởi phát
Ngày đã mới rồi, lại càng thêm mới.
Ngâm vừa dứt, liền nương trong bụng bà (vợ). Ông thầm nghĩ: ắt có điềm lành, đất phúc nhà ta sẽ hưng thịnh, là nhờ trời ban cho. Bèn vợ chồng như uyên ương chung gối, loan phượng tụ đàn. Từ đó bà mang thai, đúng kỳ sinh một trai: tai to mặt vuông, mày thanh mắt sáng, tam đình[6] cân đối, ngũ nhạc triều quy[7]. Được trăm ngày, Ông đặt tên là Lai. Sớm tỏ ra thông minh, tính tình đôn hậu, tinh anh. Ngày qua tháng lại, đến bảy tuổi bèn tìm thầy đi học. Thông minh xuất chúng, dĩnh ngộ dị thường[8]. Thiên kinh vạn quyền lầu thông, ngũ điển tam phần thấu suốt. Học lực sánh ngang Âu Dương Tu - Tô Thức, tài thơ ngang Lý Bạch - Đỗ Phủ.

才當學之間先生常称之曰這箇人家有何福祉  生得好的男兒他日文武兼全克家之令子也每  於坐間談話議論同生並肩朋友無不驚服常嘆 曰為人子者當如前古聖賢樹立功名不然於沙塲  以馬革褁[9]尸而還方是大丈夫氣胆乃口占一詩云

耳目鬚眉天賦為          功名事業正當期

為人子者當如是        [10]作沙塲革褁尸

時人觀聞詩意皆称其為必有非常之才年外二十以文學鳴名于世及至光順四年下詔開科取士一

Phiên âm:
Tài đương học chi gian, tiên sinh thường xưng chi viết: “Giá cá nhân gia hữu hà phúc chỉ, sinh đắc hảo đích nam nhi, tha nhật văn vũ kiêm toàn, khắc gia chi lệnh tử dã.” Mỗi ư tọa gian đàm thoại nghị luận, đồng sinh tịnh kiên bằng hữu vô bất kinh phục, thường thán viết: “Vi nhân tử giả đương như tiền cổ thánh hiền, thụ lập công danh; bất nhiên, ư sa trường dĩ mã cách khỏa thi nhi hoàn, phương thị đại trượng phu khí đảm.” Nãi khẩu chiếm nhất thi vân:
“Nhĩ mục tu my thiên phú vi,
Công danh sự nghiệp chính đáng kỳ.
Vi nhân tử giả đương như thị,
Khẳng tác sa trường cách khỏa thi.”
Thời nhân quan văn thi ý, giai xưng kỳ vi “tất hữu phi thường chi tài.” Niên ngoại nhị thập dĩ văn học minh danh ư thế. Cập chí Quang Thuận tứ niên, hạ chiếu khai khoa thủ sĩ. Nhất văn...

Dịch nghĩa:
    Khi còn đang đi học, thầy giáo thường khen rằng: “Nhà này tích được phúc gì mà sinh được người con trai tài giỏi thế? Sau này ắt thành bậc văn võ song toàn, là người con ưu tú giúp rạng danh gia tộc.” Mỗi khi ngồi đàm luận, bạn bè cùng lứa đều kinh ngạc thán phục. Chàng thường than rằng: “Làm con trai phải như bậc thánh hiền xưa, dựng nên công danh sự nghiệp. Bằng không, thì nơi sa trường, lấy da ngựa bọc thây mà về, ấy mới là khí phách đại trượng phu!” Rồi ứng khẩu đọc một bài thơ (dịch nghĩa):
"Tai, mắt, râu, mày đây đều là trời ban,
Có công danh sự nghiệp mới là điều đúng đắn phải làm.
Làm con phải biết như người trước,
Sẵn sàng nơi sa trường thây bọc chiến bào!"
Người đương thời nghe thơ đều khen tất là bậc kỳ tài. Ngoài hai mươi tuổi, chàng đã nổi danh khắp thiên hạ nhờ văn chương. Đến năm thứ tư niên hiệu Quang Thuận (1463), vua ban chiếu mở khoa thi chọn người tài...

(一聞)天子詔 四海状元心 公乃改名曰蘭 入場應試 中二甲進士出身 特進金紫荣祿大夫 霑濡聖澤 漫渥皇恩 香火蓋有緣矣公以剛正自持 忠勤自守 帝大寵爱之  歷陞官職 超遷至戶部尚書 逮公以六十歲 請帝回鄉養閒 帝許之 攽賞金銀錦繡 外一千斤 公回鄉盡散諸賔客故人 設立家堂以奉 先祖父母 又立生祠於兑區以為百嵗享神之所 又留與人民黃金三笏以為後日香火焉自此公往來閒𨔼於兑區之地 勸課農桑興便除()

Phiên âm:
(Nhất văn) Thiên tử chiếu, tứ hải trạng nguyên tâm[11]. Công nãi cải danh viết Lan, nhập trường ứng thí, trúng Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân. Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, triêm nhu thánh trạch, mạn ốc hoàng ân, hương hỏa cái hữu duyên hĩ! Công dĩ cương chính tự trì, trung cần tự thủ. Đế đại sủng ái chi, lịch thăng quan chức, siêu thiên chí Hộ bộ Thượng thư. Đãi công dĩ lục thập tuế, thỉnh đế hồi hương dưỡng nhàn. Đế hứa chi, ban thưởng kim ngân cẩm tú ngoại nhất thiên cân. Công hồi hương tận tán chư tân khách cố nhân, thiết lập gia đường dĩ phụng tiên tổ phụ mẫu, hựu lập sinh từ ư Đoài khu dĩ vi bách tuế hưởng thần chi sở. Hựu lưu dữ nhân dân hoàng kim tam hốt dĩ vi hậu nhật hương hỏa yên. Tự thử công vãng lai nhàn du ư Đoài khu chi địa, khuyến khóa nông tang[12] hưng tiện trừ (hại)

Dịch nghĩa:
    Vừa nghe chiếu chỉ của Hoàng đế ban ra, sĩ tử khắp bốn phương đều khởi lòng mong đạt ngôi trạng nguyên. Ngài bèn đổi tên là Lan, vào trường thi ứng thí, đỗ Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân[13]. Được ban Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, thấm nhuần ơn đức thánh thượng, chan chứa ân đức của vua, phúc hương hỏa ắt có duyên trời định! (Ơn vua thấm tựa mưa nhuần, Nghĩa chúa đầy như suối chảy, Phúc hương hỏa hẳn bởi duyên trời định).
    Ngài lấy cương chính làm người, trung cần làm tôi. Vua rất mực sủng ái, liên tục thăng quan tiến chức, thăng vượt bậc tới chức Thượng thư bộ Hộ. Đến khi ngài sáu mươi tuổi, xin vua về quê dưỡng nhàn. Vua đồng ý, ban thưởng vàng bạc, gấm vóc hơn một nghìn cân[14], Ngài về quê phân phát hết cho bạn bè khách khứa. Ngài xây dựng gia đường để làm nơi thờ phụng tổ tiên cha mẹ. Lại dựng sinh từ ở Đoài khu làm nơi hương khói trăm năm. Ngài để lại cho dân ba thỏi vàng làm hương hỏa sau này. Từ đó ngài lui tới nhàn tản nơi đất khu Đoài, khuyến khích người dân trồng trọt, chăn nuôi, trồng dâu, nuôi tằm, khuyên dạy những việc tiện lợi, chỉ bảo những điều có hại,...

甚有大功於民矣 其兑區人民 ... 一皆爱戴 欣欣咸称之曰 召父社母 及公壽考終於正寢 兑區人民追思其德 立廟冩神號以奉之 至後年 帝思公有守成[15]之功 乃贈封美字 敕旨攽回 許兑區重修廟

殿以奉之, 後人有詠詩云

汝族開科自汝蘭   名騰两國振花蛮  

芳名史筆書無盡   美字敕封筆紙香

自此以後 有事必求皆稔著 靈應端嚴 奉祀四時八節 香火如儀 望其功德而無斁 留其香火而無 ()

Phiên âm:
hại, thậm hữu đại công ư dân hĩ. Kỳ Đoài khu nhân dân, lão... ấu, nhất giai ái đãi, hân hân hàm xưng chi viết: “Triệu phụ, xã mẫu”. Cập công thọ khảo chung ư chính tẩm, Đoài khu nhân dân truy tư kỳ đức, lập miếu tả thần hiệu dĩ phụng chi. Chí hậu niên, Đế tư công hữu thủ thành chi công, nãi tặng phong mỹ tự, sắc chỉ ban hồi, hứa Đoài khu trùng tu miếu điện dĩ phụng chi. Hậu nhân hữu vịnh thi vân:
Nhữ tộc khai khoa tự Nhữ Lan, 
Danh đằng lưỡng quốc chấn Hoa Man.
Phương danh sử bút thư vô tận, 
Mỹ tự sắc phong bút chỉ hương.
Tự thử dĩ hậu, hữu sự tất cầu giai nhẫm trứ, linh ứng đoan nghiêm, phụng tự tứ thời bát tiết, hương hỏa như nghi. Vọng kỳ công đức nhi vô dịch, lưu kỳ hương hỏa nhi vô (cùng)

Dịch nghĩa:
rất có công lớn với dân. Người dân khu Đoài, từ già đến trẻ đều yêu mến kính trọng, vui vẻ cùng xưng tụng Ngài là: “Triệu cha, xã mẹ[16]”. Đến khi ngài thọ trọn tuổi trời qua đời tại nhà, dân khu Đoài nhớ thương đức độ, lập miếu, ghi thần hiệu để phụng thờ. Về sau, vua nhớ Ngài có công (góp phần) giữ vững cơ nghiệp (nền thịnh trị), bèn truy tặng phong mỹ tự, sắc chỉ ban xuống, cho phép dân khu Đoài trùng tu miếu điện để thờ phụng. Người đời sau có thơ vịnh rằng:
Họ Nhữ khai khoa từ Nhữ Lan,
Danh lừng hai nước dậy Hoa Man[17].
Tên thơm sử bút ghi không dứt,
Mỹ tự sắc phong bút tỏa hương.
    Từ đó về sau, hễ có việc gì cầu xin đều linh nghiệm rõ rệt, linh ứng uy nghiêm. Tứ thời bát tiết phụng thờ, hương khói đúng lễ. Ngưỡng vọng công đức không bao giờ quên, lưu truyền hương hỏa không bao giờ dứt.

, 與天地長存猗歟休哉

一封戶部尚書汝相公諱萊字蘭剛正博達福神準許安子下庄兑區奉祀

一奉開生化與諱字于后.  萊蘭二字切禁

生神日八月十五日. 禮用   上斋下午牢𥸷酒唱歌三日

化神日拾月二十日. 禮用   上斋下黑猪𥸷

慶賀日二月初十日. 禮用   牛牢𥸷酒唱歌三日

([18])元年仲秋吉日  

翰林院東閣大學士臣阮炳奉撰

Phiên âm:
cùng. Dữ thiên địa trường tồn, y dư hưu tai!
Nhất phong Hộ bộ Thượng thư Nhữ Tướng công húy Lai, tự Lan, Cương Chính Bác Đạt phúc thần. Chuẩn hứa An Tử Hạ trang, Đoài khu phụng tự.
Nhất phụng khai sinh hóa dữ húy tự vu hậu. "Lai”, “Lan" nhị tự thiết cấm.
Sinh thần nhật bát nguyệt thập ngũ nhật. Lễ dụng: Thượng trai (chay), hạ ngưu lao, xôi, tửu, xướng ca tam nhật.
Hóa thần nhật: Thập nguyệt nhị thập nhật. Lễ dụng: Thượng trai (chay), hạ hắc trư, xôi, tửu.
Khánh hạ nhật: Nhị nguyệt sơ thập nhật. Lễ dụng: Ngưu lao, xôi, tửu, xướng ca tam nhật.
Hồng Đức (Phúc) nguyên niên Trọng thu cát nhật.
Hàn Lâm viện Đông các Đại học sĩ thần Nguyễn Bính phụng soạn.

Dịch nghĩa:
    Cùng trời đất trường tồn mãi mãi. Ôi! Thật cao quý thay!
    Một: Phong Thượng thư Bộ Hộ Nhữ Tướng công, húy Lai, tự Lan, là vị phúc thần ngay thẳng, chính trực, uyên bác, thông đạt. Chuẩn cho thờ phụng tại khu Đoài, trang An Tử Hạ.
    Quy định khi cử hành nghi lễ sinh thần, hóa thần và việc dùng tên húy về sau: Hai chữ "Lai”, “Lan" nghiêm cấm dùng.
    Ngày sinh thần: 15 tháng 8. Lễ dùng: Trên cỗ chay, dưới trâu lễ, xôi, rượu, hát xướng trong ba ngày.
    Ngày hóa thần (ngày mất): 20 tháng 10. Lễ dùng: Trên cỗ chay, dưới (cỗ mặn có) thịt lợn đen[19], xôi, rượu.
    Ngày khánh hạ (kỷ niệm): 10 tháng 2. Lễ dùng: trâu lễ, xôi, rượu, hát xướng trong ba ngày.

    Lập ngày lành tháng tháng 8 năm Hồng Phúc thứ nhất (1572).
    Hàn Lâm viện, Đông Các Đại học sĩ, bề tôi là Nguyễn Bính phụng soạn.

[1] 太婆某 Thái bà (mỗ): “Thái bà” - chỉ bà vợ theo lối gọi trang trọng, “mỗ” – không ghi rõ họ tên.

[2] : phù lưu = trầu/giầu/giàu, mượn các âm , (không dùng nghĩa), để phiên âm tiếng Việt là trầu/giầu.

[3] 𦳃 đa mộc: nghĩa là cây đa. Tác giả soạn thần tích đã mượn âm không dùng nghĩa của chữ “ da”, viết thêm bộ “thảo ++” để viết chữ “đa”. Hán ngữ có chữ “ da” có nghĩa tiếng Việt là cây dừa, chữ Nôm đọc âm là “dừa”, cũng đọc âm khác là “đa” (một tự dạng nhưng nhiều âm) – nếu dùng chữ Hán/Nôm có thể bị đọc thành âm “dừa”, nên người soạn đã tránh viết chữ . Về nội dung: Giấu vàng dưới gốc cây đa, cây đề là cây sống lâu năm sẽ hợp lý hơn, cây đa cũng là điểm đánh dấu để dễ tìm lại, cây dừa có tuổi đời sinh học không quá 35 năm, không phù hợp với nội dung ông khách phương Bắc nói: của do tổ tiên để lại – tức là đã rất nhiều năm rồi, cây dừa cũng không phù hợp để đánh giấu vị trí khi muốn tìm lại. Ngoài ra, quán bán nước trà, trầu bên gốc cây đa là hợp lý hơn là bên gốc cây dừa.

[4] : chữ “phủ”, nghĩa là: cái nồi, cái nồi chân,  cái chõ...

[5] Thử thời đương hữu kỷ cân kim”, dịch: “Bấy giờ vàng ứng mấy mươi cân”câu thơ ý rằng con cháu nối đời công khanh thì thử hỏi quý giá tương ứng bao nhiêu cân vàng cho bằng.

[6] Tam đình: trán, mũi, cằm. Tam đình cân đối là tướng quý.

[7] Ngũ nhạc triều quy: năm bộ phận của mặt: trán, cằm, mũi, hai gò má hướng về trung tâm – tướng đại quý

[8] Dĩnh ngộ dị thường: hiểu biết khác thường

[9] : biến thể của chữ (khỏa, khõa), nghĩa là bọc, quấn.

[10] khảng: nghĩa là nguyện, vui lòng, đồng ý (sẵn sàng).

[11] Nhất văn thiên tử chiếu – Tứ hải trạng nguyên tâm: cú đối biền ngẫu, nghĩa: Vừa nghe chiếu chỉ của thiên tử – Khắp bốn biển dấy chí trạng nguyên.

[12] Nông tang: “nông” là làm nông, “tang” là cây dâu, chỉ việc trồng dâu, nuôi tằm.

[13] Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân: bản thần tích ghi nhầm, theo Văn bia đề danh tiến sĩ (bia số 3, Văn miếu, Quốc Tử giám Hà Nội), khoa thi Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận năm thứ 4 (1463) đời vua Lê Thánh Tông, do Hiển cung đại phu, Hàn lâm viện Thị giảng, Đông các Hiệu thư Đào Cử Vâng soạn ngày 15 tháng 8, niên hiệu Hồng Đức, năm thứ 15 đã ghi danh: TS Nhữ Văn Lan đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân.

[14] Hơn một nghìn cân: câu văn mang tính ước lệ, diễn tả được trọng thưởng nhiều vàng bạc, gấm vóc.

[15] 守成 thủ thành: Bản chép thần tích viết chữ , tuy nhiên các bản “Hoạch Trạch Nhữ tộc phả” đều chép chữ , người dịch thấy chữ phù hợp với ngữ cảnh, và dùng chữ

[16] Triệu cha, xã mẹ: Chữ Hán “召父社母 triệu phụ, xã mẫu”: ca tụng người có công với dân làng. Chữ “triệu ” nghĩa là gọi, triệu, đem lại, nhưng cũng được dùng như một tên gọi chung để tôn xưng vị thần nam - “召父” là “cha làng”. Chữ “ xã” nghĩa là thần đất, cũng có nghĩa chỉ đơn vị hành chính xã, làng to đứng riêng thành một xã, “社母 xã mẫu”  là mẹ làng, chỉ vị thần nữ bảo hộ làng. Ngài Nhữ Văn Lan được tôn xưng như “cha làng”.

[17] Hoa Man: Hoa là Hoa Hạ, chỉ người Hán; Man là Nam Man, chỉ người Việt.

[18] 洪福 Hồng Phúc: Niên hiệu Hồng Phúc (1572-1573) triều Lê Anh Tông. Bản thần tích chữ Hán này do Hàn Lâm viện, Đông Các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm “Hồng Phúc nguyên niên” (1572), sao chép lại thời Nguyễn, khi đã thành lập tỉnh Kiến An. Chi tiết: “Hồng Đức 洪德 nguyên niên (1470)” là sao chép nhầm.

[19] Lợn đen: hắc trư, chỉ loại lợn lông đen.

Ảnh sách thần tích chữ Hán









Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn