Bài TỪ viết theo Từ điệu “滿江紅 Mãn Giang Hồng (Nhạc Phi) của tác gia Hội nguyên, Tiến sĩ Nhữ Đình Toản

Lời dẫn và Bài Từ do Hội nguyên, Tiến sĩ Nhữ Đình Toản viết tặng Đình nguyên, Bảng nhãn Nhữ Trọng Thái khi ông về trí sĩ. ảnh chụp từ cuốn "Hoạch Trạch Nhữ tộc phả" của tác giả Nhữ Thượng Chân, tức Nhữ Đình Toản.

     Bài TỪ viết theo Từ điệu “滿江紅 Mãn Giang Hồng (Nhạc Phi) của tác gia Hội nguyên, Tiến sĩ Nhữ Đình Toản (1703 - 1773) viết tặng anh họ là Đình nguyên, Bảng nhãn Nhữ Trọng Thai (1696 - ?) khi ông về trí sĩ. Bài Từ được chép trong cuốn "Hoạch Trạch Nhữ tộc phả" do Nhữ Thượng Chân, tức Nhữ Đình Toản, khởi soạn mùa đông năm Cảnh Hưng thứ 6 (1745), các đời sau có chép thêm. 
     Từ 詞; là một thể loại văn học, phát triển mạnh vào đời Tống ở Trung Quốc, bởi vậy có câu quen thuộc “Hán phú, Đường thi, Tống từ, Nguyên khúc, Minh - Thanh tiểu thuyết”.

     Dưới đây là chữ Hán, phiêm âm Lời dẫn và Bài Từ (Từ khúc) của tác gia Nhữ Đình Toản viết theo Từ điệu Mãn Giang Hồng 滿江紅.

汝台兄致仕詞并引
Lời dẫn:
茲審浪帖東洋星輝南極三拿遂引年夙願
九重隆優老殊霑台兄一擢危科两宜紳胄度珪䣭藻周旋機屋藝坛武論文干出八宰垣麾閫
彊鎻肯塵於智鑑緩簪寜括於貞褰三十年穆若清風已雪香山之鬂一两担潇然行里信東路國之車甲辰濃澤邑金樽午橋樹年家赤幟錦堂春色極知同樂之有緣雲軸艷詞聊誌分榮之多幸

Bài Từ:
詞曰
駕海擎陽顒昂得斗南浩氣人共道紳胄咸宜巷垣濟美理窟研深月望幾鄉懷思逐秋風起把冲和妙訣泰天君閒世味會耆老程孫子品蘭桂
觸山水且逍遙自在神仙陸地綠野何年舊勝遊洪州此地新芳址看完名詢吾榜前茅來者繼(右詞滿江紅)

Phiên âm:
Nhữ Thai huynh trí sĩ từ tịnh dẫn.
(phần Lời dẫn)
Tư thẩm lãng thiếp Đông Dương, tinh huy Nam Cực, tam nã toại dẫn niên túc nguyện.
Cửu trùng long ưu lão, thù triêm Thai huynh, nhất trạc nguy khoa, lưỡng nghi thân trụ, độ khuê du tảo, chu toàn cơ ốc, đàn võ luận văn, can xuất bát tể viên huy khổn.Cương tỏa khẳng trần ư trí giám, hoãn trâm ninh quát ư trinh khiên, tam thập niên mộc nhược thanh phong, dĩ tuyết Hương Sơn chi mấn, nhất lưỡng đàm tiêu nhiên hành lý, tín Đông Lộ quốc chi xa. Giáp Thìn Nùng Trạch ấp, kim tôn Ngọ kiều, thụ niên gia xích xí, cẩm đường xuân sắc. Cực tri đồng lạc chi hữu duyên, vân trục diễm từ, liêu chí phân vinh chi đa hạnh.

(Bài Từ)
Từ viết:
Giá hải kình dương, ngung ngang đắc Đẩu Nam, hạo khí nhân cộng đạo, thân trụ hàm nghi, hạng viên tế mỹ, lý quật nghiên thâm, nguyệt vọng ky hương, hoài tư trục thu phong khởi, bả xung hòa diệu quyết, Thái Thiên Quân nhàn thế vị, hội kỳ lão Trình Tôn Tử, phẩm lan quế, xúc sơn thủy, thả tiêu dao tự tại, thần tiên lục địa, lục dã hà niên cựu thắng du Hồng Châu, thử địa tân phương chỉ, khán hoàn danh vấn ngô, bảng tiền mao lai giả kế (hữu từ: Mãn Giang Hồng).

(Tạm dịch nghĩa Lời dẫn)
      Nay xét: 
      Sóng lặng biển Đông, sao sáng Nam Cực, ba lần dâng biểu xin về dưỡng nhàn, nay đã toại nguyện ước bấy lâu.
     Đức vua chốn cửu trùng ban ân ưu đãi bậc lão thần. Thai huynh được hưởng vinh dự: Một lần giành danh thủ khoa cao quý, hai lần làm quan thanh liêm . Đức độ như ngọc khuê, khéo xoay vần trong chốn cơ mưu. Văn võ toàn tài, nghị luận mạch lạc. Đảm đương tám công việc trọng yếu, điều khiển quyền binh cả trong triều lẫn ngoài biên ải.
     Vững vàng khóa chặt bụi trần nhờ tâm trí sáng suốt, trâm mũ tuy buông lỏng, nếp sống vẫn giữ vững tiết hạnh bền lâu. Ba mươi năm phong thái thanh tao, tóc giờ đã bạc trắng như tuyết phủ Hương Sơn. Một đôi gánh nhẹ nhàng hành trang, thuận theo cỗ xe Đông Lộ mà tiến bước.
     Vào năm Giáp Thìn, tại ấp Nùng Trạch, dưới bóng cây nơi cầu Ngọ, rượu quý rót đầy vàng chén, bên gia đình lâu đời, cờ đỏ rực, Cẩm Đường ngập tràn sắc xuân. Biết rõ duyên cùng hưởng lạc, mây từ rực rỡ, ghi chép niềm vinh dự được chia sẻ.

(Tạm dịch nghĩa, ý bài Từ)
      Cưỡi sóng biển, nâng mặt trời, vẻ mặt uy nghi, vững vàng ở phương Nam. Khí khái hào hùng, người người ca tụng. Bậc quyền quý đều khen ngợi, vườn nhà tô điểm thêm vẻ đẹp, hang đạo lý nghiền ngẫm thâm sâu. Trông trăng nhớ quê, ôm nỗi hoài niệm, theo làn gió thu trỗi dậy. Nắm giữ bí quyết hòa khí tinh tế, trời Thái hòa, quân tử thong dong giữa đời. Hội họp các bậc trưởng lão, hậu duệ nhà Trình Tôn, phẩm hạnh như lan như quế.
     Giao hòa cùng non nước, tiêu dao tự tại như chốn thần tiên. Mảnh đất này là đất phúc, ruộng đồng xanh tốt – nơi xưa từng là thắng cảnh nổi tiếng của Hồng Châu, nay là nơi đất lành mới mẻ, tươi đẹp. Xem bảng vàng ghi danh, người sau tiếp bước kế thừa (bên phải là bài từ điệu Mãn Giang Hồng)    

    Phần trên là dịch ý. Bài từ (từ khúc) được viết bằng chữ Hán tuân thủ Từ điệu (khuôn nhạc), buộc phải tuân thủ luật thanh điệu, số âm tiết, vị trí bằng/trắc rất chặt chẽ, khi ngâm xướng đòi hỏi ngắt nhịp dài, ngắn, giọng cao, trung, thấp ở các chữ theo đúng Từ điệu.
    Từ điệu Mãn Giang Hồng thuộc: Loại: “trường điệu” (dài), song điệp (2 đoạn, thượng và hạ); Câu: xem kẽ 7-8-9 chữ (tính theo âm tiết cổ Hán, không phải chữ viết); Nhịp: chủ yếu ¾, 2/2/3, 3/3/3... tùy câu; Vần: thường dùng vần bằng trong toàn khúc, đổi vần ở đoạn sau theo luật định.

     Từ hay đòi hỏi tài năng lớn về ngôn ngữ, âm luật, tạo hình ảnh và gợi cảm xúc trong khuôn khổ chặt chẽ… nên số lượng các sáng tác tại Việt Nam không nhiều. Ngoài ra, do không bắt buộc trong thi cử nên các nho sĩ Việt Nam không luyện.
     Từ có số chữ trong bài cố định, câu dài ngắn, và phối hợp chặt chẽ với âm nhạc. Song, nó khác nhạc phủ ở chỗ "cách luật nghiêm nhặt", khác Đường luật ở chỗ "câu dài ngắn", khác thơ cổ phong ở chỗ "cách luật nghiêm nhặt và số chữ cố định". Luật bằng trắc của TỪ rất chặt chẽ, nhìn chung không có lệ "bất luận" như ở thơ Đường luật.
     Một bài có thể dùng nhiều vần. Vần có trắc hoặc bằng, hoặc cả hai (xen kẽ); song chủ yếu gieo vần bằng.
     Trình tự gieo vần ở Từ cũng rất đa dạng, có thể là vần liền, vần gián cách, vần ôm...
     Từ thiên về ca xướng. Lịch sử thi ca Trung Quốc ghi nhận Có khoảng vài trăm Từ điệu, được gọi theo tên bài Từ gốc (giống như các làn điệu chèo ở Việt Nam). “Mãn Giang Hồng” tên một bài Từ của Nhạc Phi, Nhữ Đình Toản sáng tác Từ khúc theo Từ điệu Mãn Giang Hồng 滿江紅.

Nhữ Đình Văn 15.08.2025

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn