
Chế bản chữ Hán sắc:
勅光進慎祿大夫陪從吏部右侍郞壽岳男佐治卿上制汝廷賢爲有政術資望言論風棱奉欽差節制各處水步諸營兼總政機太尉安國公鄭棡恭奉大元帥統國政上聖父師盛功仁明威德定王旨准有朝臣簽議應陞任御史臺副都御史職仍爵可爲光進慎祿大夫陪從御史臺副都御史壽岳男佐治卿上制 故 勅
正和二十五年十二月十六日
Phiên âm:
Sắc Quang Tiến Thận Lộc Đại phu, Bồi tụng, Lại bộ Hữu Thị
lang, Thọ Nhạc nam, Tá trị khanh, thượng chế Nhữ Đình Hiền vị hữu chánh thuật,
tư vọng, ngôn luận phong lăng. Phụng Khâm sai Tiết chế các xứ thủy bộ chư
doanh, kiêm Tổng chính cơ, Thái úy An Quốc công Trịnh Cương cung phụng Đại
Nguyên soái thống quốc chính, Thượng thánh phụ sư Thịnh công Nhân minh Uy đức Định
vương chỉ chuẩn, hữu triều thần thiêm nghị, ứng thăng nhậm Ngự sử đài Phó Đô Ngự
sử chức, nhưng tước, khả vị Quang Tiến Thận Lộc đại phu, Bồi tụng, Ngự sử đài
Phó Đô Ngự sử, Thọ Nhạc nam, Tá trị khanh, thượng chế cố sắc.
Chính Hòa nhị thập ngũ niên, thập nhị nguyệt, thập lục nhật.
Dịch:
Sắc cho Quang tiến Thận lộc Đại phu1,
Bồi tụng2, Hữu Thị lang Bộ Lại3, Thọ nhạc nam4,
Tá trị khanh, thượng chế Nhữ Đình Hiền, bởi là người có tài năng chính trị
(chính thuật), có kinh nghiệm và uy tín, ngôn luận chính trực, phong thái cương
nghị. Vâng mệnh Khâm sai Tiết chế các doanh thủy bộ, kiêm Tổng chính cơ Thái úy
An Quốc công Trịnh Cương, cung kính vâng theo chỉ của Đại nguyên soái Tổng Quốc Chính Thượng Thánh phụ Sư Thịnh
công nhân minh uy đức Định vương5 (Trịnh Căn). Lại được triều thần
bàn bạc xin thăng chức Phó Đô ngự sử tại Ngự sử đài6, vẫn giữ nguyên
tước cũ, nên xứng đáng phong cho là Quang tiến Thận lộc Đại phu, Bồi tụng, Phó
đô ngự sử tại Ngự sử đài, Thọ Nhạc nam, Tá trị khanh. Nay ban sắc.
Ngày 16, tháng 12 năm Chính Hòa 25 (1704).
Lời người
dịch:
Đây là sắc
phong có niên đại sớm nhất còn lưu giữ đến nay của dòng họ Nhữ làng Hoạch Trạch
(Hải Dương), sắc còn nguyên vẹn. Họ Nhữ làng Hoạch Trạch có cụ Nhữ Tiến Dụng đỗ
hương cống năm Nhâm ngọ (1642), khi 19
tuổi, sau đó đỗ tiến sĩ năm
Giáp thìn (1664), cụ Nhữ Đình Hiền đỗ tiến sĩ năm Canh thân (1680). Giai đoạn
những năm từ 1664 đến 1704 các cụ đỗ đạt đại khoa, liên tục thăng quan, tiến chức,
theo quy định hành chính đương thời, chắc chắn sẽ có nhiều sắc được ban, phong,
tuy nhiên, hiện không còn sắc của giai đoạn trước năm 1704.
Nội dung:
sắc phong bổ sung chức Phó Đô Ngự sử, tại Ngự sử đài cho Tiến sĩ Nhữ Đình Hiền,
giữ nguyên các chức, tước đã được phong trước đó. Sau phong, Tiến sĩ Nhữ Đình
Hiền có hàm tản quan, chức, tước là: Quang tiến Thận lộc Đại phu (hàm tản quan), Bồi tụng (chức tương đương phó
tể tướng), Phó đô ngự sử tại Ngự sử đài (phó tại Ngự sử đài – gần tương đương với
Phó Thanh tra Chính phủ hiện nay), Thọ Nhạc nam (tước Nam), Tá trị khanh.
Sắc có
đề cập đến nhân vật chính trị đường thời (1704) là Trịnh Cương. Thời điểm này,
chúa Trịnh Căn đang tại vị và chắt nội của chúa là Trịnh Cương đã được phong Thế
tử, được lập phủ riêng để chuẩn bị kế thừa ngôi chúa. Nội dung sắc có đề cập đến
hai “phân lớp” quyền lực là Thái úy An Quốc công Trịnh Cương và Đại nguyên soái
Định Vương Trịnh Căn. Sắc này cũng đã được người có tâm huyết dịch, phổ biến,
tuy nhiên bản phiên âm bị thiếu và nhầm một số chữ, bản dịch chưa sát với nội
dung về hai lớp quyền lực đương thời.
Người dịch đề xuất bản phiên âm, dịch như trên. Rất mong nhận được tham gia góp ý của mọi người.
Chú thích:
(1) Quang tiến Thận lộc Đại
phu: Là hàm tản quan, ban cho quan văn
(2) Bồi tụng: Chức quan đại thần, là phó của quan Tham tụng. Chức Tham
tụng nắm quyền tể tướng, đúng đầu ban văn trong phủ liêu (phủ Chúa Trịnh). Bồi
tụng có thể gọi là chức quan phó tể tướng.
(3) Hữu thị lang Bộ Lại: Bộ Lại là một trong sáu bộ của quan chế thời phong kiến,
gồm bộ Lại, bộ Hộ, bộ Lễ, bộ Binh, bộ Hình, bộ Công. Đứng đầu các bộ là Thượng
thư, tiếp theo là hai phó lần lượt là Tả thị lang (thứ trưởng thường trực), và
Hữu thị lang (thứ trưởng).
(4) Thọ nhạc nam: Tước được vua ban, xưa có các tước như: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Tiến sĩ Nhữ
Đình Hiền sang thời Cảnh Hưng, do tử ấm, được phong “Thọ quận công”, tức tước
công.
(5) “Đại Nguyên soái, Tổng quốc chính, Thượng
Thánh Phụ sư Thịnh công Nhân Minh Uy Đức Định vương”: Sách mệnh vua Lê phong cho Trịnh Căn năm 1684.
(6) Phó Đô ngự sử tại Ngự sử đài: Ngự
sử đài là một cơ quan chuyên trách trong bộ máy chính quyền phong kiến, có
chức năng chính là giám sát, can gián và phản biện hoạt động của nhà
vua và toàn bộ quan lại trong triều đình và cả nước. Gần tương đương Thanh tra Chính phủ hiện nay. Đứng đầu
là Đô ngự sử, phó là Phó Đô ngự sử.
PY. 末秋 mạt thu, 12.9 Ất Tị
Nhữ Đình Văn (dịch)