Tôi được Trưởng Ban liên lạc Họ Nhữ Việt Nam phân công phát biểu tại buổi lễ dâng hương ông tổ nghề lược tre được tổ chức rất thành kính, trang trọng tại di tích lịch sử - văn hóa linh thiêng ngày hôm nay.
Lời đầu tiên, thay mặt Ban liên lạc họ Nhữ Việt Nam, Kính chúc Ban tổ chức buổi lễ, các cụ, các ông bà, các vị khách quý và toàn thể mọi người có mặt tại buổi lễ hôm nay, đón năm mới Giáp Thìn: Mạnh khoẻ - An khang - Thịnh vượng. Chúc Buỗi lễ dâng hương thành công tốt đẹp.
Đền thờ TS Thượng Thư Nhữ Đình Hiền – ông Tổ làng nghề lược tre, đồng thời là Nhà thờ họ Nhữ đã có lịch sử trên 300 năm. Đền thờ xưa là tư dinh của TS Nhữ Đình Hiền, ghi dấu ấn những năm tháng sinh sống cuối đời của vị quan thượng thư nổi tiếng. Tiến sĩ Nhữ Đình Toản đã sửa sang tư dinh của cha mình thành Nhà thờ tổ dòng họ. Đặt tên chữ là "思 孝 堂 Tư Hiếu Đường, nghĩa là: Tưởng nhớ tri ân, phụng thờ báo hiếu. Là nơi thờ tự linh thiêng, kết tụ Anh linh các bậc tổ tiên dòng họ là những nhà khoa bảng nổi danh tài đức, có nhiều công lao với đất nước và quê hương. Nơi hậu thế tri ân công đức tổ tiên, công đức ông tổ làng nghề, nơi nuôi dưỡng truyền thống văn hiến, hiếu học, hiếu nghĩa của dòng họ và quê hương.
Đặc biệt năm 1993 đã được công nhận là di tịch lịch sử - văn hóa cấp quốc gia, mấy chục năm qua đã được nhà nước, chính quyền địa phương và dòng họ Nhữ nhiều lần đầu tư tôn tạo. Và hơn hết là đã duy trì rất đều đặn các hoạt động dâng hương, ôn lại công đức ông tổ làng nghề và các bậc khoa bảng, qua đó những giá trị văn hóa – tinh thần – tâm linh của di tích ngày càng thêm sâu đậm. Tài năng, công đức ông tổ làng nghề và các bậc khoa bảng đã lan tỏa vào tâm tư, tình cảm, lối sống. Ban LL họ Nhữ VN rất cảm kích, trân trọng về điều đó. Nhân ngày dâng hương đầu xuân mới, xin chúc cho di tích lịch sử - văn hóa quan trọng của quê hương, dòng họ Nhữ Hoạch Trạch trường tồn vĩnh cửu.
Kính thưa các quý vị!
Là hậu duệ 16 đời của Cụ Nhữ Văn Lan - Thủy Tổ dòng họ, về dâng nén tâm nhang trước anh linh các bậc tổ tông nhân đầu năm mới với tôi là sự thôi thúc của tâm khảm, là thực hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, thành kính tri ân các bậc tổ tông của một người cháu chắt sống xa quê, luôn hướng về cội nguồn.
Với tâm huyết làm cầu nối liên kết sâu rộng và ngày càng bền chắc giữa những người anh em trong gia tộc, năm 1994, tại Hà Nội, Ban liên lạc họ Nhữ Việt Nam đã được thành lập. Kể từ đó đến nay, hàng năm, Ban liên lạc đã tổ chức nhiều các hoạt động như: Tổ chức các chuyên đi “vấn tổ, tầm tông”, đi thăm viếng các chi dòng họ ở mọi miền tổ quốc; Tham gia tổ chức nhiều hội thảo khoa học danh nhân họ Nhữ; Tổ chức các lần hội nghị họ Nhữ toàn quốc; Sưu tầm, dịch thuật, biên tập, và phổ biến nhiều tư liệu gia phả, gốc tích, danh nhân, người tốt họ Nhữ; Lập và đăng tin bài trên công thông tin điện tử họ Nhữ với tên miền là www.honhuvietnam.com v.v…
Qua các hoạt động thiết thực đó, đã góp phần giúp các chi dòng họ Nhữ trên toàn quốc ngày càng thông hiểu về nhau. Giao lưu, thăm hỏi và cùng tham gia các sinh hoạt tâm linh, cộng đồng, hướng về cội nguồn. Cùng nhau ghép nối các mảnh ghép về thế thứ, về tổ tông, qua đó làm cho tình đoàn kết dòng tộc ngày càng thêm bền chắc.
Sinh hoạt tại Ban liên lạc, tham dự lễ dâng hương năm nay, tôi xin chia sẻ ngắn gọn, như một vài điểm nhấn, theo sự hiểu biết cá nhân về ông Tổ làng nghề lược tre, về các danh nhân văn hóa, khoa bảng được tôn thờ tại di tích tâm linh Nhà thờ họ Nhữ:
Điều đầu tiên xin được cảm kích thưa trình lại trước anh linh các bậc tổ tông và chia sẻ với mọi người, đó là tài năng, công lao và đức sáng của các danh nhân khoa bảng dòng họ luôn là tấm gương sáng cho hậu thế, luôn được hậu thế trân trọng, tôn vinh. Điển hình là đến nay đã có bốn vị khoa bảng được tôn thờ trong nhà thờ là TS Nhữ Văn Lan, TS Nhữ Tiến Dụng, TS Nhữ Đình Hiền, TS Nhữ Đình Toản được nhà nước lấy tên đặt tên các đường phố và trường học ở TP Hải Dương và TT Tiên Lãng.
Về danh nhân khoa bảng Nhữ Văn Lan: Cụ Nhữ Văn Lan được suy tôn là Thủy Tổ dòng họ Nhữ xã Thái Học và các chi nhánh trực thuộc, đỗ tiến sĩ năm 1463, được ghi danh tại bia số 3, Văn bia đề danh tiến sĩ Văn Miếu – QTG Hà Nội. Là ông Tổ khai khoa họ Nhữ, vị khoa bảng đầu tiên của huyện Tiên Lãng. Công lao của TS với dòng họ và quê hương là công lao khai mở, đặt nền móng cho truyền thống hiếu học, khoa bảng của dòng họ Nhữ và quê hương. Ghi nhận công lao, huyện Tiên Lãng đã lấy tên của Cụ đặt tên một đường phố và tên một trường trung học phổ thông. Do có nhiều công lao giúp đỡ dân thôn khi về trí sĩ, Cụ được tôn là Phúc thần, tức Thành Hoàng làng An Tử Hạ. Cụ có công nuôi dưỡng và dạy dỗ thành tài Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm những năm đầu đời. Từ đường họ Nguyễn, chi bảy, hậu duệ Trạng Trình đã tôn thờ cụ Tổ ngoại là TS Nhữ Văn Lan ở chính điện. Tiến sĩ Nhữ Văn Lan là một biểu tượng văn hóa lớn của xứ Đông. Năm 2023 vừa qua, cả dòng họ Nguyễn và Đình Đông đều long trọng tổ chức các sự kiện văn hóa tâm linh kỷ niệm 500 ngày mất của tiến sĩ Nhữ Văn Lan. Ban liên lạc đã phân công hai đoàn, trong hai ngày liên tiếp về dự các sự kiện theo giấy mời – qua đó để khảng định, Ban liên lạc đã xác định sự kiện ở Nguyễn Nhữ từ đường và Đình Đông là hai trong số các sự kiện tâm linh quan trọng hàng đầu trong hoạt động của Ban LL họ Nhữ Việt Nam năm 2023.
Danh nhân khoa bảng Nhữ Tiến Dụng: Đỗ tiến sĩ năm 1664, được ghi danh tại bia số 42, Văn bia đề danh tiến sĩ Văn miếu – QTG. Là vị quan thanh liêm, giỏi địa lý, chiêm tinh. Có nhiều công lao về giáo dục khi được giao tổ chức, quản lý nhiều kỳ thi hương, thi hội. Năm Mậu Thân 1668, Cụ có công xem đất, xây dựng văn chỉ xã Hoạch Trạch để nuôi dưỡng truyền thống văn hiến, hiếu học cho quê hương. Năm 1687, cụ đã có công đứng ra vận động và tổ chức xây dựng khôi phục đền Bạch Mã – một trong Tứ trấn linh thiêng của kin thành Thăng Long. Cụ là các giả văn bia “Bạch Mã thần từ bi ký” (1687), là bia có liên đại sớm nhất còn đến nay tại đình Bạch Mã, ghi lại quá trình hưng công khôi phục đình.
Năm 1774, Hoàng giáp Nhữ Công Trấn là chắt nội Tiến sĩ Nhữ Tiến Dụng đã hiến toàn bộ khu đất, nhà sát bên đền Bạch Mã do cha ông để lại cho nhà đền để mở rộng đền, xây dựng văn chỉ đền. Sự việc này được ghi lại tại bia “Văn chỉ bi ký” lập năm 1774, hiện còn trong đền. Trong đền còn nhiều văn bia khác có liên quan đến các cụ tổ họ Nhữ, họ Nguyễn Duy làng Hoạch Trạch.
Trong đền hiện nay, vẫn duy trì ban “Hậu Trạch” thờ các cụ tổ họ Nhữ có công hưng công đền với bài vị: “Phụng Lê triều Hoạch Trạch Nhữ tộc chư hậu tự chân linh chi linh vị”.
Về Danh nhân khoa bảng Nhữ Đình Hiền: Đỗ tiến sĩ năm 1680, được ghi danh tại bia số 48, Văn bia đề danh tiến sĩ Văn miếu – QTG, là con trai Tiến sĩ Nhữ Tiến Dụng. Làm quan đến chức Thượng Thư, giỏi chính sự, xử án. Câu ca “Văn chương Lê Anh Tuấn/ Chính sự Nhữ Đình Hiền” được ghi chép lại trong sách “Đăng Khoa lục sưu giảng” của TS Trần Tiến quê Nam Sách (cuối thời Lê Trịnh, là ông tổ nhà thơ Trần Đăng Khoa). Sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” đã ghi chép về TS Nhữ Đình Hiền có công tham gia đoàn sứ bộ với nhiệm vụ Phó Chánh sứ năm 1697-1698, đoàn sứ đã tấu trình vấn đề về biên giới, đòi lại các châu, huyện thuộc Tuyên Quang, Hưng Hóa. Theo lưu truyền, trong chuyến đi sứ này, TS Nhữ Đình Hiền đã mang nghề lược tre về truyền cho dân làng, được tôn vinh là ông Tổ làng nghề.
Về danh nhân khoa bảng Nhữ Trọng Thai: Đỗ Đình nguyên, Bãng nhãn, tức đỗ đầu kỳ thi đình, là người duy nhất đỗ tam khôi tại khoa thi năm 1733, được ghi danh tại bia số 66, Văn bia đề danh tiến sĩ Văn miếu – QTG. Là cháu nội tiến sĩ Nhữ Tiến Dụng. Cụ Trọng Thai là người đỗ cao nhất trong số 8 vị khoa bảng họ Nhữ thời xưa. Tên chữ của cụ 台 thuộc bộ “khẩu”, gồm bộ “厶 khứ” ghép với bộ “口 khẩu” có hai âm là “Thai” nghĩa là Sao thai và “Đài” (trong đền đài). Sách quốc ngữ hiện nay có sách dịch tên cụ là “Thai”, có sách dịch là “Đài”. Tuy nhiên, tên chính xác là “Trọng Thai”, điều này được khảng định qua sách “Đăng Khoa lục sưu giảng”, sách viết về giai thoại “Thái Công”, nghĩa là “Cống Thai”.
Về danh nhân khoa bảng Nhữ Đình Toản: Đỗ Hội nguyên, Tiến sĩ năm 1736, ghi danh tại bia số 67, Văn bia đề danh tiến sĩ Văn miếu – QTG. Theo sách “Khâm định Việt sử...”, cụ Nhữ Đình Toản là người văn võ song toàn. Ngạch văn làm đến Tham tụng (tức nắm quyền tể tướng, đứng đầu ban văn), thượng thư, Tế tửu QTG. Ngạch võ làm đến: Đô đốc phủ, Tả đô đốc, Quyền phủ sự, đồng dự chính vụ. Khi về trí sĩ được ban vào hàng Quốc lão. Với nhà nước: Cụ có công soạn và ban hành sách Bách ty thứ vụ, Lê triều giáo hóa điều lệ, cải cách quy chế thi cử v.v... Là tác gia soạn rất nhiều văn bia, trong đó có hai lần soạn văn bia đề danh tiến sĩ tại VM-QTG. Với quê hương: TS Nhữ Đình Toản quan tâm xây dựng truyền thống văn hiến, hiếu học, tôn vinh các bậc tiền hiền, bồi đắp vượng khí của quê hương. Sử sách, văn bia và gia phả đã ghi: (Cụ) đã có công tu sửa hai tòa văn chỉ huyện Đường An (ở làng Sồi) và hiến 16 mẫu ruộng làm tự điền. Khi mở tư dinh tại thôn Như (Dinh Như), gặp lúc binh lửa, nhân dân lưu tán, Cụ thân đứng ra chiêu tập mọi người, khai khẩn đất hoang hóa… đến nay dân vẫn còn nhớ”. Vì vậy nhiều người cháu nội của tiến sỹ Nhữ Đình Toản đã trở thành những ông tổ khai nghiệp, lập ấp, mở làng, đó là các làng: Làng Lọ (An Lâu), Dinh Như, làng Quàn v.v… Ông đã “sửa sang đình, chùa, miếu, cấp cho ba thôn ở xã Đình Tổ (Tó, Như, Quàn) mỗi thôn 2 mẫu ruộng đa trạch…”. TS cũng quan tâm giúp đỡ phường nghề Diên lộc (làm lược). Chính vì thế, trước đây vào các ngày tế lễ hàng năm, ghi nhớ công ơn, các làng Vạc, Như, Quàn, phường Diên Lộc… đều mang lễ đến dâng hương.
Về nữ kiệt Nhữ Thị Nhuận: là cháu nội Tiến sĩ Nhữ Tiến Dụng. Không chỉ là lương y tài giỏi mà còn có công dẹp giặc phản loạn ở Thanh Hoa. Bà đã được vua Lê phong "Quế hộ Thượng Quận phu nhân", rồi vua nhà Thanh (Trung Quốc) phong “Lưỡng quốc Quế hộ Thượng thượng Quận phu nhân”. Bà đã phát tâm bỏ tiền xây dựng chùa Thánh Thọ làng Hoạch Trạch.
Sự kiện bà Nhữ Thị Nhuận tài giỏi, được quê chồng là làng Mộ Trạch phong Hậu thần, lập bia ghi công đức khi còn sống, do có nhiều công lao với làng, điển hình như việc năm 1757, Bà đã bỏ tiền khôi phục đình làng Mộ Trạch quê chồng hết 3000 quan tiền, sau đó lại cúng 200 quan tiền cổ và 12 mẫu ruộng cho đình đã được nhiều báo chí và làng Mộ Trạch ngày nay thường xuyên nhắc đến, cá nhân tôi cũng đã khảo sát, khảo cứu bia, tượng thờ, lăng mộ và viết bài về bà.
Nhưng sự kiện năm 1771, bà đã bỏ tiền của khôi phục chùa Thánh Thọ làng Hoạch Trạch thì lại gần như chưa được phật tử làng Hoạch Trạch nhắc đến với sự trân trọng xứng tầm. Việc này cũng là mới mẻ với cả cá nhân tôi. Chiều mùng 1 Tết vừa qua, ra chùa lễ Phật, nhân thể đọc tấm bia hậu trước nhà tổ chùa, thấy ghi rất rõ về sự kiện này. Tôi có chụp ảnh văn bia, viết bài đăng trên cổng thông tin điện từ Họ Nhữ VN, bia ghi: “Vì bản xã có một ngôi chùa cổ, trải qua thời gian đã hư hại nặng, cỏ dại bao trùm. Nay Quế hộ Phu nhân truy ân to lớn với quê hương, phát từ tâm, không ngại tài sản riêng còn hạn hẹp, trùng tu tôn tạo thành công ngôi chùa, làm lại thiêu hương tại nơi nền cũ. Thật là thiện duyên nơi quê cũ, theo nguyện vọng lâu dài nơi quê cũ, thể hiện tình cảm lâu dài về sau...”. Bà Nhữ Thị Nhuận quả là một nữ kiệt, tài ba.
Kính thưa các quý vị !
Ban liên lạc họ Nhữ Việt Nam về dự lễ dâng hương hôm nay gồm nhiều thành viên là lãnh đạo, ủy viên, công tác viên thuộc nhiều chi, dòng họ Nhữ khác nhau. Chúng tôi rất trân trọng, cảm kích khi được mời dự, được kính cẩn dâng nén tâm nhang tưởng nhớ các bậc tổ tông là các danh nhân, các nhà khoa bảng nổi danh của dòng họ Nhữ Hoạch Trạch.
Ban liên lạc rất mong tiếp tục được sự ủng hộ cao về tinh thần và vật chất, sự tham gia nhiệt thành của họ Nhữ Hoạch Trạch trong các hoạt động vì cộng đồng họ Nhữ chúng ta trong thời gian tới của Ban liên lạc họ Nhữ Việt Nam.
Một lần nữa kính chúc các quý vị mạnh khỏe, anh khang, thịnh vượng.
Nhữ Đình Văn
(Ban LL họ Nhữ VN)