Theo: Bài viết của tác giả Phan Lan Hoa trên facebook
Có lẽ khi viết xong những câu Thơ Kiều cuối cùng, Nguyễn Du cũng đã đoán trước được tác phẩm của mình là một thiên tuyệt bút. Dẫu vậy, cái lo lắng cho ba trăm năm sau của đại thi hào thì lại chứng minh Nguyễn Du không hề lường hết được tác dụng lớn lao của Thơ Kiều đối với đời sống tinh thần của nhân dân Việt Nam.
Đức hạnh của nàng Kiều, đời sau có người khen kẻ chê. Kẻ chê, ấy là họ lấy cái nhìn đời nay áp đặt vào cái sự đã rồi của đời xưa nên có phần xô lệch. Nhưng thông qua Truyện Kiều, những dòng thơ lục bát mà Nguyễn Du để lại cho đời, thì có thể ví đẹp như một nàng Kiều bất tử, có sức quyến rũ xuyên thời đại.
Từ sự
yêu mến một thiên tuyệt bút, dân Việt Nam đã triển khai ra hàng loạt trò chơi
dân gian lành mạnh và nho nhã. Có thể nói Thơ Kiều – Nguyễn Du và những những
người hâm mộ Thơ Kiều đã tô điểm thêm một lớp phấn hồng, làm sáng tươi nhan sắc
dòng thơ lục bát, phết một nét duyên đậm đà, độc tôn không pha trộn của nền thi
ca Việt Nam.
Cổ nhân Việt Nam có thú chơi trí tuệ khác thiên hạ, đó là thú chơi chữ. Trong thú chơi chữ lại phân thành những thú chơi riêng: chơi đố chữ, chơi đối chữ, chơi nói lái chữ, chơi thơ. Trong chơi thơ lại có chơi thơ Quốc Âm và chơi Thơ Kiều. Thú chơi Thơ Kiều có lẽ là đệ nhất chơi trong thiên hạ về tầm lôi cuốn. Ai đã từng mê Kiều, đều biết đến các thú chơi Kiều. Khi “trà dư” thì lấy Tập Kiều, triết lý Kiều mà ngẫm; Khi chén tạc chén thù thì Lảy Kiều, Vịnh Kiều mà chơi; Khi sấp ngửa đường đời, thì lấy Thơ Kiều mà gieo quẻ rủi may tìm kiếm lời khuyên nhủ; Khi muốn khen chê ai đó một cách lịch lãm thì lấy Thơ Kiều mà ví von; Khi muốn thử thách ai đó để tìm tri kỷ, tri âm, người ta cũng lấy Thơ Kiều ra mà đố, đối. Thơ Kiều còn đóng vai trò thay lời muốn nói trong lòng dân, từng có đơn kiện và xử kiện bằng Thơ Kiều trong lịch sử. Thời gian gần đây, các nghệ sĩ cả nước còn đem Thơ Kiều phổ nhạc, ứng dụng đủ tất cả các làn điệu dân ca ba miền Bắc Trung Nam.
Cũng đã có một vài nhà thơ đời nay lấy làm bực tức khi cái bóng của Nguyễn Du quá to lớn, khiến cho thơ Lục bát bị nhốt trong sự hào hoa của ngôi nhà thơ mang tên Truyện Kiều – Nguyễn Du. “Nói thật mất lòng”, chứ thật ra thì không chỉ Thơ Kiều, mà toàn thể dòng thơ Quốc âm ở Việt Nam đều chưa có ai ở thời nay đánh đổ được người xưa. Không chỉ Nguyễn Du mới là tượng đài, mà còn cả trăm tượng đài khác chữ nghĩa để đời. Và tôi xin đưa ra một lời khuyên chân thành, muốn “con hơn cha” thì con phải khiêm tốn học cha. Cần phải nghiêm túc xem xét thành tựu của cha để lại, nắm lấy cái gốc để vun xới, mới hòng có cái cành nở hoa. Chứ như bây giờ, có người lý thuyết thơ còn chưa vững mà đã đòi thi thố thơ với Đại thi hào, thì đúng là ngông cuồng lắm thay?
Thơ
Kiều không sơ đẳng ở tầm đủ Thanh-Điệu-Vận, mà Cung-Thương-Giốc-Chủy-Vũ biến
thiên Quân-Thần-Dân-Sự-Vật, nhân sinh quan, vũ trụ quan đều tụ cả vào trong lời
thơ. Có khi chỉ cần hai câu mười bốn chữ là đủ để gom cả vũ trụ vào bức tranh
mùa xuân của đất trời.
Cỏ non
xanh rợn chân trời
Cành
lê trắng điểm một vài bông hoa
Mười
bốn chữ khác vẽ xong một kinh thành tráng lệ
Long
lanh đáy nước in trời
Thành
xây khói biếc, non phơi bóng vàng
Mười
bốn chữ lột tả được cảnh đời phong trần của một con người
Vầng
trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in
gối chiếc nửa soi dặm trường
Và
cũng chỉ mười bốn chữ để cắt nghĩa đạo lý
Thiện
căn ở tại lòng ta
Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Mười
bốn chữ để làm lời kết, đưa ra cái bắt tay bang giao giữa hai quốc gia Việt -
Mỹ đầy nhân văn, đầy xúc động lòng người
“Trời
còn để có hôm nay
Tan
sương đầu ngõ vén mây giữa trời”
Chỉ
sáu câu lục bát, Nguyễn Du vẽ xong nhan sắc hai thiếu nữ đẹp tuyệt trần. Chữ
ít, tứ nhiều, ai chê thơ Nguyễn Du dở thì xin mời thử thách xem có làm đặng?
Vân
xem trang trọng khác vời
Khuôn
trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa
cười ngọc thốt đoan trang,
Mây
thua nước tóc, tuyết nhường màu da,
Kiều
càng sắc sảo mặn mà,
So bề
tài sắc lại là phần hơn
Thơ
hay cốt ở tứ thơ cao vời, hay nói cách khác chữ ít, tứ nhiều, âm thanh vũ trụ
biến thiên, đó là loại thơ của bậc thánh thi.
Nó phải có cơn cơ thế nào, Thơ Kiều mới nằm lòng trong dân chúng Việt Nam như ngày nay. Đâu chỉ khi miệng lưỡi một ai đó bực tức thì thành ra dân Việt Nam cả ngàn năm nay đều không biết thưởng thơ, thật là lố bịch ?
THƠ
KIỀU LÀ LOẠI THƠ DỤNG ĐỂ THAY LỜI MUỐN NÓI
Ngàn
lẻ một tình huống trong cuộc sống, người Việt Nam quen dùng Thơ Kiều để “thay
lời muốn nói”, tôi xin đưa vài ví dụ:
VÍ VON HỌC TRÒ
- Quay
bài bị bắt: Mặt trông đau đớn rụng rời / Oan này còn một kêu trời nhưng xa
-
Trước ngày đi thi: Tửng bưng trời mới bình minh / Hương hoa ngũ cúng sắm
sanh lễ thường.
-
Trong phòng thi: Có tài mà cậy chi tài / Chữ tài liền với chữ tai một vần
- Thi
xong: Trải qua một cuộc bể dâu / Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
- Đợi
điểm: Sầu đong càng lắc càng đầy / Ba thu dồn lại một ngày dài ghê
- Được
tin đỗ: Nghe tin nở mặt nở mày / Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng.
- Chia
tay bạn bè: Người về chiếc bóng năm canh / Kẻ đi muôn dặm một mình xa xăm.
- Nhập trường: Từ đây góc bể chân trời / Nắng mưa thui thủi quê người một thân.
DỤNG
THƠ KIỀU ĐỂ MIÊU TẢ SỰ VẬT, SỰ VIỆC
- Tả
cảnh thả diều: Cánh hồng bay bổng tuyệt vời / Đã mòn con mắt phương trời đăm
đăm
- Tập
Kiều tả cảnh lái xe ô tô:
Thênh
thênh đường cái thanh vân
Một xe
trong cõi hồng trần như bay
Ào ào
đổ lộc rung cây
Ngoài
tai để mặc gió bay mái ngoài
- Tả cây đèn cầy cháy: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà / Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.
TẬP
KIỀU
Tập Kiều là thú chơi lựa trong 3254 câu Kiều, chọn những câu cần thiết, ghép lại thành một bài thơ mới, nhằm chuyển tải ý người muốn nói. Thú chơi này chả khác nào biến Truyện Kiều thành cuốn từ điển tiếng Việt bằng thơ. Kể cả các nhà thơ lớn như Nguyễn Bính, Tản Đà, Phan Bội Châu… đều có bút tích Tập Kiều để lại.
Nhân
kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du (1965), Nguyễn Bính làm bài Tập Kiều:
Cảo
thơm lần dở trước đèn
Là
nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa
Trăm
năm trong cõi người ta
Một
thiên tuyệt bút gọi là để sau
Khen
tài nhả ngọc phun châu
Mười
lăm năm ấy biết bao nhiêu tình
Mấy
lời kí chú đinh ninh
Rằng
tài nên trọng, rằng tình nên thương
Khen
rằng đáng giá thịnh đường
Thì treo giải nhất chi nhường cho ai
Bài
Tập Kiều của cụ Phan Bội Châu khi bị giam lỏng ở Huế:
Ví
chăng xét tấm tình si
Thiệt
đây mà có ích gì đến ai
Vội
chi liễu ép hoa nài
Còn
thân ắt hẳn đền bồi có khi
Sinh
rằng từ thuở tương tri
Tấm
riêng, riêng những nặng vì nước non
Trăm
năm tính cuộc vuông tròn
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.
Tờ đơn
khiếu kiện viết bằng Tập Kiều:
Chuyện
kể rằng khoảng đầu thế kỷ XX, có một chị quê ở Ninh Bình, cha mẹ mất sớm để lại
ruộng đất, tiến bạc, nhà cửa cho chị. Mụ Điều là hàng xóm bên cạnh ý đồ muốn
cướp đoạt tài sản, bèn ngon ngọt dỗ chị làm lẽ cho chồng mình. Nào ngờ khi về
nhà chồng, chị phải chịu cảnh ăn cơm nguội, nằm nhà ngoài, nhà chồng chiếm đoạt
hết tài sản, rồi đày chị lên Lạng Sơn buôn bán. Chị bèn viết đơn khiếu kiện lên
quan át sát tỉnh Lạng Sơn. Nội dung như sau:
Lần
thâu gió mát trăng thanh
Bà
Điều Ngoan ở bên thành sang chơi
Ngọt
ngào nói nói cười cười
Nghe
xong thì cũng ra người bao dung
…
Đêm
thâu vằng vặc năm canh
Gió
đưa chiếc bách lênh đênh giữa dòng
Người
vào chung gối loan phòng
Con ra
tựa bóng đèn chong canh dài
Ngày
ngày dở tỉnh dở say
Làm
cho bể ải khi đầy khi vơi
Bề
ngoài thơn thớt nói cưới
Mà
trong nham hiểm giết người không dao
Con
sinh ra hận má đào
Sa cơ
nên phải lụy vào tôi ngươi
Xui
con vò võ phương trời
Bán
buôn thành Lạng kiếm lời cầu may
Xem
gương ba bốn năm nay
Thân
con chẳng kẻo mắc tay bợm già
Lừa
con lấy sạch cửa nhà
Một
mai đất khách làm ma không chồng
Cúi
đầu quỳ trước cửa công
Dám
xin một lá phiếu hồng thôi ra.
Trước tờ đơn độc đáo gây chú ý, quan án sát tỉnh Lạng Sơn bèn cho điều tra cụ thể, xét xử cho chị ta được li dị chồng và buộc nhà chồng phải trả lại tài sản cho chị.
ĐỐI
KIỀU
Xóm hồng
lâu, buổi tối nọ xảy ra một tấn bi hài kịch: hai cha con chạm trán nhau. Hai
thế hệ không biết làm thế nào để thoát hiểm mà khỏi thương tổn đến thể diện,
liền cùng quay lại quy hết lỗi cho giai nhân.
Người
con mắng:
“Chẳng
hổ mình sao, dám đem trần cấu dự vào bố…”
Bố
cũng mắng lại:
“Tuồng
gì hoa thải, mượn màu son phấn đánh lừa con…”
Tư
tưởng thì quả là chẳng đáng mặt trượng phu tí nào, khi trút hết tội lỗi cho
giai nhân như thế. Nhưng xét về đối đáp thì thật là nhất khí, vì mỗi vế lấy
ngay ở hai câu 6-8 liền nhau:
Nghĩ
mình chẳng hổ mình sao
Dám
đem trần-cấu dự vào bố kinh.
***
Tuồng
gì hoa thải hương thừa
Mượn
màu son phấn đánh lừa con đen.
ĐỐ
KIỀU, VÍ KIỀU, ĐỐI ĐÁP KIỀU
Các cụ
đồ nho xứ Nghệ xưa say hát ví phường vải đến độ:
Hát
cho đổ quán xiêu đình
Cho
lăn lóc đá, cho rung rinh trời
Say
như ong say mật, như bướm say hoa, đến độ bất chấp:
Hát
cho trời rạng đông ra
Mai về
quan bỏ nhà pha cũng đành.
Chỉ là
một môn hát thôi, có gì mà lại khiến cho các cụ ta say đến vậy?
Thưa
rằng, môn hát ví phường vải không đơn thuần chỉ là môn hát dân gian như các làn
điệu dân ca khác. Hát chỉ là phương tiện để thể hiện, thực chất nội dung là một
cuộc đối chất trí tuệ giữa các bậc văn nhân nho sĩ và các cô phường vải thông
minh xinh đẹp. Cuộc đấu trí này có khi kéo dài cả tháng. Trong nhóm kép nam có
tên tuổi cả những vị tiến sĩ, hoàng giáp tiến sĩ, những vị anh hào, các nhân
vật lịch sử tiếng tăm mà ta có thể kể tên như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Phan
Bội Châu...
Nguyễn Du từ chỗ mê say hát phường vải mà thành kép hát ở Phường vải Trường Lưu. Đến Thơ Kiều được đưa vào hát ví phường vải là cả một câu chuyện dài kỳ thú vị chẳng lời nào mà tả cho hết. Thôi thì mời quý vị coi ở các ví dụ cụ thể dưới đây để biết:
VÍ
KIỀU
Vừa ra
khỏi nhà, gặp cô phường vải xinh tươi giữa đường, anh đồ nho cất tiếng:
Ở nhà
dời gót ra đi
Vừa
trong tuần trẩy hội gặp Kiều nhi giữa đường
Rồi
anh ví von:
Vừa ra
vừa gặp người xinh
Cũng
bằng Kim Trọng tiết Thanh minh gặp Kiều
Rồi
anh thổ lộ:
Bước
xuống sông Lam tìm con cá lội
Trèo
lên Ngàn Hống hái một trái sim
Có
thương nhau anh mới đến đây tìm
Bây
giờ kháp mặt như Kim kháp Kiều
Cùng
một tâm trạng đó, các cô phường vải cũng đánh tiếng:
Bóng
ai thấp thoáng vườn hoa
Hình
như Kim Trọng đến nhà Kiều Vân
Các cô
gửi niềm mong chờ một cách đầy ý tứ:
Đêm
khuya sương xuống đất im
Tai
nghe tiếng nhạc chàng Kim đến gần
Các
chàng đồ nho cũng thừa hiểu là các cô đang chờ mình. Nhưng vào được trong sân
trình để “kháp mặt người xinh” quả là không dễ chút nào. Cái ngõ vào nhà phường
vải được khoá bằng thơ, bằng tích Kiều, nên anh chàng nào chưa có thứ chìa khoá
ấy trong tay, thì nên quay về mà lo đèn sách mới hòng. Cái sự khó ấy thế nào,
thì tôi xin được rút trích một số tình huống đối đáp trong hát ví phường vải để
minh chứng:
Phường
vải
Truyện
Kiều anh đã thuộc làu
Đố anh
kể được một câu năm người?
Đồ nho
Này
chồng, này mẹ, này cha
Này là
em ruột, này là em dâu.
Biết
là anh đồ cũng khá, các cô nâng dần độ khó:
Truyện
Kiều anh đã thuộc lòng
Đố anh
kể được một dòng chữ Nho
Anh đồ
nho cũng thể hiện trình độ:
Hồ
công quyết kế thừa cơ
Lễ
tiên, binh hậu khắc cờ tập công.
Biết
tài anh đồ rồi, các cô vẫn cứ cắc cớ:
Đồn
rằng anh thuộc truyện Kiều
Thuyền
quyên xin hỏi mấy điều phân minh
Năm
nào Kiều lấy Thúc Sinh?
Năm
Nào kiều phải bán mình chuộc cha?
Nguyễn
Du nào có cho biết năm nào Kiều lấy Thúc Sinh? Bên nam bèn gỡ rối bằng đòn “gậy
ông đập lưng ông” thách đố lại:
-
Thiếp hỏi chàng thế thì cũng phải
Chàng
hỏi thiếp Từ Hải con ai?
Lẽ ra
Kiều ả Vân em
Cớ sao
lại gọi là Kim – Vân – Kiều?
Khúc
cuối của chặng đối đố trong hát ví phường vải thường là vừa đố, nhưng vừa ướm
lời tỏ tình, lúc này phường vải thường dùng Tập Kiều để hát đối đáp cùng các
văn nho:
"Trăm
năm tính cuộc vuông tròn
Phải
dò cho đến ngọn nguồn lạch sông"
Phải
đâu mèo mả, gà đồng
Thuyền
quyên muốn hỏi anh hùng trước sau:
"Ba
quân chỉ ngọn cờ đào
Đạo ra
Vô Tích, đạo vào Lâm Tri"
Thế
còn một đạo làm chi?
Trai
anh hùng giải được, gái nữ nhi chịu tài.
Khi đó
các chàng nho sĩ cũng phải trả lời theo ý tứ đó:
Vì ai
chiếc lá lìa cành
Khi
săn như chỉ, khi mành như tơ
Trót
công rày đợi mai chờ
"Phải
người trăng gió vật vờ hay sao"
"Ba
quân chỉ ngọn cờ đào
Đạo ra
Vô Tích, đạo vào Lâm Tri
Ắt còn
một đạo binh uy
Ở nhà
giữ chốn biên thùy cho nghiêm
Anh
hùng tỏ với thuyền quyên
"Chữ
tình càng mặn, chữ duyên càng nồng"!
“Đối
ra đáp đã nên lời…”, đã cảm phục tài lẫn nhau. Ở phần hát xe kết và hát tiễn,
hai bên nam nữ đều chọn những câu với nội dung tỏ rõ tình yêu son sắt thuỷ
chung để bày tỏ.
Phường
vải
Bây
giờ gặp gỡ nhau đây
Mà
lòng đã chắc những ngày một hai
Khăng
khăng cửa đóng then gài
Nhị
đào chờ đợi con người tình chung.
Đồ nho
Hai ta
quyết chí hai ta
Đá
vàng cũng quyết, phong ba cũng liều
Tóc tơ
căn vặn hết điều
Hôm
sau hẹn gặp Kim Kiều kết giao.
NGÀN
LẺ MỘT KIỂU ĐỐ KIỀU
Đố xem
mức độ thông thuộc truyện Kiều đến đâu.
Thường
thì người đố chọn những chỗ lắt léo trong Truyện Kiều, những câu chữ có thể
phịa ra những tình huống hóm hỉnh, không có thực trong Truyên Kiều như:
Đố:
Tiện
đây hỏi thật một điều
Em đây
chưa biết nàng Kiều ai sinh?
Đáp:
Hổ
sinh ra phận tơ đào
Nàng
Kiều… hổ đẻ, chứ nào ai sinh!
Đố:
Truyện
Kiều anh đã thuộc làu
Đố anh
biết được cô nào sinh đôi?
Đáp:
Đầu
lòng hai ả tố nga
Hai
con đầu cả…ắt là sinh đôi!
Đố tìm
một chữ trong truyện Kiều:
Truyện
Kiều anh đã thuộc lòng
Đố anh
kể được hai dòng năm “cho”?
Đáp:
Làm
cho cho mệt cho mê
Làm
cho đau đớn ê chề tấm thân
Đố:
Truyện
Kiều anh đã thuộc làu
Đó anh
đáp được một câu bốn “mình”?
Đáp:
Oan
kia theo mãi với tình
Một
mình mình biết, một mình mình hay.
Đố
Kiều gắn với thời đại mới:
Thời
Kiều đã có ngân hàng
Em đây
chưa tỏ, xin chàng chỉ cho?
Đáp:
Nhà
băng… đưa mối rước vào
Tiền
nong thanh toán việc nào chẳng xong?
Câu đố
chiết tự chữ Hán
Tuần
sau bỗng thấy hai người
Giang
tay về chốn trướng mai tự tình
Đố là Là chữ gì?
Đáp: Chữ Thiên (gồm chữ
nhị và chữ nhân cấu thành)
Đời
người đến thế thì thôi
Ba thu
dồn lại một ngày dài ghê
Đáp: Là chữ Xuân (gồm
chữ tam, chữ nhật và chữ nhân cấu thành)
Kể
chuyện đố Kiều, đối Kiều thì dài lắm. Bút giấy nào mà ghi cho hết. Tôi xin ghi
lại một Giai thoại khá thú vị về ba anh đồ Nghệ tán gái. Chuyện rằng ba anh đồ
Nghệ đi chơi, thấy một cô phường cấy rõ xinh đang cấy lúa dưới ruộng, bèn thách
nhau làm sao để mời được cô này lên bờ nói chuyện. Một anh lém lỉnh cất tiếng
ngâm nga câu ví:
Đến
đây hỏi thật Thuý Kiều
Có
thương Kim Trọng ít nhiều chi không?
Cô gái
tủm tỉm:
- Các
thầy hỏi như rứa, giừ em xin nhờ một việc. Con cò bên ruộng kia đang lò dò sang
ruộng em đấy, các thầy làm sao đọc một câu Kiều mà nó bay đi được thì em xin
lên bờ hầu chuyện. Ba thầy nho nhìn nhau một lúc rồi một thầy cất tiếng:
Lần
lần tháng trọn ngày qua
Nỗi
gần ai biết đường xa thế này
Lâm
Tri từ thủa uyên bay!
Thầy
nho cố gắng hét to chữ “bay”, nhưng con cò vẫn tỉnh bơ như không. Thầy nho thứ
hai bèn ra oai:
Cùng
nhau theo gót sai nha
Song
song vào trước sân hoa lạy quỳ
Trông
lên mặt sắt đen sì!
Thầy
nho ráng “sì” một tiếng dài để đuổi cò, nhưng con cò vẫn không nhúc nhích.
Nhiệm vụ nặng nề dồn hết vào thầy nho thứ ba. Cò mà cứ ở lỳ thì bay đi là trình
tán gái của các thầy.
Mảnh
trăng đã gác non đoài
Một
mình luống những đứng ngồi chưa xong
Đùng
đùng gió dục mây vần
Một xe
hay cõi hồng trần như bay!
Quyết
không để mất cơ hội giao lưu với người đẹp phường cấy, lần này thầy nho vừa dậm
chân, khua tay, lấy hết sức bình sinh, hét to thất thanh hai tiếng “đùng đùng”
và "bay", khiến con cò giật mình bay lên. Dù vậy, chấm điểm thuộc
Kiều của các thầy nho, cô gái chịu lên bờ tiếp chuyện ba thầy. Qua đây cũng
thấy rõ một điều, ở thế kỷ 18 -19, người ta coi chuyện thuộc Thơ Kiều cũng là
một trong những tiêu chí đánh giá mức độ thông chữ của Đồ Nho.
BÓI
KIỀU
Vào
khoảng thập kỷ 50 – 60, trong dân gian nước ta vẫn còn lưu truyền nhiều thầy
bói chuyên bói bằng Thơ Kiều. Thường thì mỗi thầy bói tự lập cho mình một bộ
thơ bói. Mỗi trang có một bài Tập Kiều. Mỗi bài Tập Kiều có nội dung tập trung
về một chủ đề nào đó. Người chơi bói cầm cuốn sách của thầy bói lên và khấn:
Lạy
vua Từ Hải,
Lạy
vãi Giác Duyên,
Lạy
tiên Thúy Kiều
Cho
con xin một quẻ về... (điều muốn bói)
Khấn
xong thì mở tự nhiên một trang bất kỳ, không được đọc trước rồi mới mở. Mở xong
thì nghe thầy bói giảng Kiều xem với bài Tập Kiều mình bắt được hên xui thế
nào.
Chưa
thể kể hết những giá trị của Thơ Kiều chỉ bằng một bài viết. Thơ Kiều là ca
dao, là dân ca, là từ điển tiếng Việt, là nhân sinh quan, vũ trụ quan; Là tâm
tình thay lời muốn nói, là phép đối nhân xử thế trong thiên hạ; Là khi vui buồn
có thể lấy làm chỗ dựa tinh thần và gần đây nhất, các vị Tổng thống Mỹ trong
những chuyến ngoại giao với Việt Nam, họ đã sử dụng hữu hiệu Thơ Kiều để lay
động trái tim người Việt Nam.
Tổng
thống Bill Clinton : “... Chỉ sau một ngày ở thăm đất nước các bạn, tôi tin
tưởng chắc chắn rằng sẽ không có gì có thể ngăn cản người dân Việt Nam giành
lấy cơ hội nhận biết tiềm năng tràn đầy của mình. Nhân dân Hoa Kỳ vui mừng vì
đã đến lúc chúng ta có thể trở thành đối tác.” và ông ấy đọc Thơ Kiều để kết
thúc bài phát biểu:
“Sen
tàn cúc lại nở hoa
Sầu
dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Tổng
thống Obama: “Mai này, khi người Mỹ – Việt Nam học cùng nhau, cùng phối hợp
sáng tạo với nhau, các bạn hãy nhớ khoảnh khắc tôi đứng ở đây trước các bạn” và
ông kết thúc bài diễn văn cũng bằng hai câu Thơ Kiều:
“Rằng
trăm năm cũng từ đây.
Của
tin gọi một chút này làm ghi”
Trong
chuyến công du Mỹ của TBT Nguyễn Phú Trọng. Để chúc mừng mối quan hệ Việt Nam –
Hoa Kỳ sau 20 năm chính thực bình thường hóa (1995 – 2015), Joe Binden bấy giờ
là Phó Tổng thống Mỹ, đã đọc hai câu Thơ Kiều:
“Trời
còn để có hôm nay
Tan
sương đầu ngõ vén mây giữa trời”
Tùy
từng thời điểm lịch sử khác nhau trong mối quan hệ bang giao Việt - Mỹ, các vị
Tổng thống Mỹ đã lựa chọn những câu Thơ Kiều đầy ngụ ý. Họ thể hiện sự tôn
trọng và hiểu biết Văn hóa Việt Nam. Họ mượn lời người Việt để tỏ tình hữu nghị
với người Việt. Thật tốt đẹp lắm thay!
Thơ
Kiều đóng vai trò ngoại giao, Nguyễn Du chắc chắn đã không hề tiên lường được
điều này. Sức sống tuyệt diệu của Thơ Kiều là như vậy!
Thơ
Kiều của Nguyễn Du là bất hủ. Nguyễn Du là Thánh thi Việt Nam. Trên thế giới
chưa hề có một cuốn thi ca nào chứa đựng nhiều giá trị ứng dụng đời sống được
như Thơ Kiều của Nguyễn Du. Xin đừng ai có tham vọng lật đổ tượng đài sẽ tự
biến mình thành lố bịch…
***
TƯ
LIỆU THAM KHẢO VÀ SỬ DỤNG:
- Thơ
văn Tập Kiều - NXB Ty văn hoá Hà Tĩnh 1965
- Đố
Kiều nét đẹp văn hoá - Phạm Đan Quế 2003
- Lãng
nhân chơi chữ - Ấn phẩm SG 1961
- Hát
ví phường vải Nghệ Tĩnh - Ninh viết Giao 2002
- Nghệ
thuật chơi chữ - Triều Nguyên
- Hình
minh họa rút từ bộ lịch Kiều 9 năm 2018 - 2026
Nguồn:
fb LanHoa Phan