Sự tích Tham tụng, Tả Đô đốc Nhữ Công Toản là hậu thân của Tướng quân Phạm Ngũ Lão

SỰ TÍCH THAM TỤNG TẢ ĐÔ ĐỐC NHỮ CÔNG TOẢN
LÀ HẬU THÂN CỦA TƯỚNG QUÂN PHẠM NGŨ LÃO

     Tư liệu Hán Nôm: Trích trong cuốn “Hoạch Trạch Nhữ tộc phả”, các bản lưu truyền ở làng Hoạch Trạch và Hà Nội.
     Dịch và chú giải: Nhữ Đình Văn

     Nội dung gồm:
- Chú giải của người dịch
- Dich ra Quốc Ngữ
- Ảnh tư liệu Hán Nôm
- Chế bản chữ Hán
- Phiên âm Hán Việt

          CHÚ GIẢI CỦA NGƯỜI DỊCH:

          Sự tích về Binh bộ Thượng thư, Tham tụng, Tả Đô đốc Nhữ Công Toản (tên khác là Nhữ Đình Toản) được chép trong cuốn “Hoạch Trạch Nhữ tộc phả”, các bản lưu truyền ở làng Hoạch Trạch và Hà Nội. Cuốn tộc phả do Nhữ Công Toản khởi soạn mùa đông năm Cảnh Hưng thứ 5 (1745).

          Theo sự tích lưu truyền:  

          Đoàn Thượng (1181 – 1228), được phong thần là Đông Hải Đại vương, quê ở xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc, Hải Dương. Là vị tướng quân cuối thời Lý, hào trưởng vùng Hồng Châu, chủ soái của sứ quân họ Đoàn phù nhà Lý, không thuần phục sự chuyển giao từ nhà Lý sang nhà Trần. Ngài được phong Thành hoàng của làng Hoạch Trạch và nhiều làng khác ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Theo sự tích dân gian, ngài Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng đã đầu thai ra Tướng quân Phạm Ngũ Lão.

          Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320) người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, xứ Hải Dương (nay là Hưng Yên) – theo Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn đánh giặc Nguyên Mông, là một tướng tài, nhiều công lao. Theo sự tích dân gian, Tướng quân Phạm Ngũ Lão là hậu thân của Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng, và đến thời Cảnh Hưng đã đầu thai ra Tả Đô đốc Nhữ Công Toản.

          Nhữ Công Toản (1703 – 1773) người làng Hoạch Trạch, huyện Đường An, xứ Hải Dương. Là con của Tiến sĩ, Thượng thư bộ Hình Nhữ Đình Hiền. Đỗ tiến sĩ năm 1736, làm quan trải các chức: Ban văn: Thượng thư bộ Binh, Tham Tụng; Ban võ: Đô đốc phủ, Tả Đô đốc, Quyền Phủ sự, Đồng dự chính vụ, khi về trí sĩ được ban vào hàng Quốc lão. Có công trong cải cách thi cử, dẹp loạn, lập văn chỉ huyện Đường An... Theo sự tích dân gian, ông là hậu thân của Tướng quân Phạm Ngũ Lão.

          Về địa lý, làng Hoạch Trạch, nơi có đình thờ Tướng quân Đoàn Thượng, quê hương Tả Đô đốc Nhữ Công Toản cách làng Phù Ủng, quê Tướng quân Phạm Ngũ Lão khoản 6 km theo đường chim bay.    Tư liệu Hán Nôm: Trích trong cuốn “Hoạch Trạch Nhữ tộc phả”, các bản lưu truyền ở làng Hoạch Trạch và Hà Nội.
     Dịch và chú giải: Nhữ Đình Văn

         ẢNH TƯ LIỆU:

 

 

DỊCH RA QUỐC NGỮ:

          Ông khi sinh ra có nhiều điều khác thường.

          Ban đầu, Thái phó công (Nhữ Đình Hiền, thân phụ của ông) nằm mộng thấy sao Thái Bạch bay vào lòng, nâng lên rồi nuốt vào.

          Thân mẫu (của ông là cụ bà) họ Lâm (Lâm Thị Nhiên), ban đêm đi qua đền Phù Ủng (thờ tướng quân Phạm Ngũ Lão), chợt nghe tiếng nói từ trên không rằng: “Xin mẹ đợi ta”. Khi trở về thì bà có thai, đủ mười hai tháng, đến kỳ sinh mà ba ngày vẫn chưa sinh được.

          Lúc ấy Thái phó công (cha ông) đang đọc sách, nghe tiếng gõ cửa, rồi lại im lặng, như thế xảy ra đến ba lần. Ngài (Thái phó công) lấy làm lạ, yên lặng suy nghĩ, chợt như có tiếng nói rằng:

-        “Xin được vào làm con nhà Tướng công”.

-        Ngài hỏi: “Bao nhiêu năm?”.

-        Đáp rằng: “Hai mươi hai năm”.

-        Ngài không đồng ý.  

-        Một lúc sau tiếng nói lại: “Ba mươi hai năm có được chăng?”

-        Ngài lại không đồng ý. Một lúc sau, dần dần tăng đến năm Tân Hợi, bảy mươi hai năm.

-        Ngài vẫn còn đang do dự, thì tiếng nói rằng:“Đã trái mệnh Thiên Đế nhiều lắm rồi”.

          Khi mở cửa thì chỉ thấy một bóng đen bước vào, chốc lát sau liền sinh ra Ông. Lúc đó là giờ Hợi, ngày mồng sáu tháng tư, năm Quý Mùi, niên hiệu Chính Hòa.

          Khi  ông giữ chức Tham tụng (Tham tụng là chức nắm quyền Tể tướng, đứng đầu Ban Văn), trên lông mày bỗng mọc một mụn nhọt, thường xuyên rỉ nước, cả năm không khỏi. Sau đó, dân Phù Ủng liên tiếp gặp bất an, người dân trong ấp lo lắng,  bèn cùng nhau bàn việc cầu đảo.

          Người giữ đền chợt ứng khẩu nói:“Thần đã giáng sinh, chính là Hoạch Trạch Quốc công đó, các ông sao không tìm đến cầu?”. Các bô lão trong xã đem sự việc trình bày đầy đủ với ông. Ông nói: “Thần từ của làng các ông, gian thượng điện bị dột, nước mưa nhỏ xuống ghế của thần, nên tu sửa sớm đi”.

          Dân trong xã vâng lời trở về, quả nhiên thấy mái điện có chỗ ngói vỡ, nước mưa rò xuống, làm bẩn lông mày tượng thần, vết tròn như gương. Bèn lập tức sửa chữa, tẩy rửa; từ đó dân làng được yên ổn, mà bệnh của ông cũng khỏi.

          Đến ngày ngài trở về cõi thần, sự linh dị lại càng rõ. Trước đó, ở cửa thượng điện đền Phù Ủng có một chốt lớn đóng chặt, người dân trong ấp răn nhau không ai dám động tới. Đến lúc ấy, chốt bỗng tự mở, trong đền ánh sáng và khí thiêng bốc lên rực rỡ, nghe như có tiếng ồn ào, huyên náo. Đêm ấy, Ông mất, gió lớn nổi lên dữ dội. Từ Hoạch Trạch đến Phù Ủng, dọc đường lúa ngô đổ rạp, cây cối gãy đổ. Mọi người đều biết rằng, Ông lại hiển linh làm thần ở ngôi đền ấy vậy.

          CHẾ BẢN CHỮ HÁN:

公誕生多異常.

初太傅公夢見太白星入懷,捧而吞之.

生母林氏,夜經扶擁祠,忽聞空中語曰:母待我.

及回遂懷肚 (),十二月臨期三日不出, 太傅公方觀書,開叩門聲,隨復寂然,如是者三.

公靜異之,若有言曰:顧入為相公子, 公應曰:幾年?曰:二十二年公不, 久曰:三十二可乎?公又不, 久馴至七十二年,公尚躊躇, 曰:已違天帝命多矣及啟門,只見玄影入,俄而生公時正和癸未年四月初六日亥時生.

及公為參從時,眉上忽生一疽,常時流濕,經年不愈。後扶擁民人物累累不寧,邑人憂之,謀相祈禱。

守祠人忽應語曰:神已降生 穫澤國公矣,爾等盍往求之。伊社父老以事具白公。公曰:爾邑神祠上殿屋滴雨,滴神椅,宜早修理。

伊社民如命而歸,果見殿產有破瓦處,雨水漏下,點污像眉,圓跡如鏡。遂郎修理洗滌,社民遂寧,而公疾亦愈。

至公歸神日,亦尤甚。頭異先是扶擁神祠上殿門,有一巨鑕封固,邑是人相戒不敢動。至是此鑕忽開,祠中光氣騰焰,開若嘗嘈雜。是夜公考終,風爾大作. 自穫澤至扶擁,一路禾黍盡偃,樹木折倒。人皆知公復顯神于伊祠云。

          PHIÊN ÂM:

           Công đản sinh đa dị thường.

          Sơ Thái phó công mộng kiến Thái Bạch tinh nhập hoài, bổng nhi thôn chi.

          Sinh mẫu Lâm thị, dạ kinh Phù Ủng từ, hốt văn không trung ngữ viết: “Mẫu đãi ngã”. Cập hồi toại hoài đỗ (thai), thập nhị nguyệt lâm kỳ tam nhật bất xuất.

          Thái phó công phương quan thư, khai khấu môn thanh, tuỳ phục tịch nhiên, như thị giả tam. Công tĩnh dị chi, nhược hữu ngôn viết: “Cố nhập vi tướng công tử”. Công ứng viết: “Kỷ niên?”. Viết: “Nhị thập nhị niên”. Công bất. Cửu viết: “Tam thập nhị khả hồ?” Công hựu bất. Cửu thuần chí Tân Hợi thất thập nhị niên. Công thượng trù trừ. Viết: “Dĩ vi thiên đế mệnh đa hỹ”. Cập khải môn, chỉ kiến huyền ảnh nhập, nga nhi sinh công. Thời Chính Hòa Quý Mùi niên tứ nguyệt sơ lục nhật Hợi thời sinh.

          Cập công vi Tham tụng thời, mi thượng hốt sinh nhất thư, thường thời lưu thấp, kinh niên bất dũ. Hậu Phù Ủng dân nhân vật luỹ lũy bất ninh, ấp nhân ưu chi, mưu tương kỳ đảo.

          Thủ từ nhân hốt ứng ngữ viết: “Thần dĩ giáng sinh Hoạch Trạch Quốc công hỹ, nhĩ đẳng hạp vãng cầu chi”. Y xã phụ lão dĩ sự cụ bạch công. Công viết: “Nhĩ ấp thần từ thượng điện ốc tích vũ, tích thần ỷ, nghi tảo tu lý.”

          Y xã dân như mệnh nhi quy, quả kiến điện sản hữu phá ngoã xứ, vũ thuỷ lậu hạ, điểm ô tượng mi, viên tích như kính. Toại lang tu lý tẩy địch, xã dân toại ninh, nhi công tật diệc dũ.

          Chí công quy thần nhật, diệc vưu thậm. Đầu dị tiên thị Phù Ủng thần từ thượng điện môn, hữu nhất cự chất phong cố, ấp thị nhân tương giới bất cảm động. Chí thị thử chất hốt khai, từ trung quang khí đằng diễm, khai nhược thường tào tạp. Thị dạ công khảo chung, phong nhĩ đại tác. Tự Hoạch Trạch chí Phù Ủng, nhất lộ hòa thử tận yểm, thụ mộc chiết đảo. Nhân giai tri công phục hiển thần ư y từ vân.

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn