Tư liệu Hán Nôn về bà Nhữ Thị Thục - Thân mẫu Trạng Trình (dịch)

Tư liệu Hán Nôm về bà Nhữ Thị Thục – Thân mẫu Trạng Trình

Nguồn tư liệu Hán Nôm: Trich trong cuốn “Hoạch Trạch Nhữ tộc phả”, các bản lưu truyền ở làng Hoạch Trạch và Hà Nội.
Dịch và chú giải: Nhữ Đình Văn

- Ảnh tư liệu chữ Hán
- Dịch ra Quôc ngữ
- Phiên âm Hán Việt

ẢNH TƯ LIỆU






DỊCH RA QUỐC NGỮ:
    Cụ Thủy tổ là Tiến sĩ (đỗ năm 1463[1], là cha bà Nhữ Thị Thục, được phong thần là) Cương chính Bác đạt Đại vương.
    Húy[2] là Nhữ Văn Lan (1443 – 1523), đỗ khoa Quý Mùi (1463), niên hiệu Quang Thuận thứ tư (1463), triều vua Lê Thánh Tông, được sắc ban học vị Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Làm quan đến chức Thượng thư bộ Hộ, sau được gia phong thần là Cương chính, Bác đạt Đại vương.
    Nguyên quán xã An Tử, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách. Hiện nay được thờ làm Phúc thần của xã, qua các đời triều vua đều có sắc phong (thần), hương khói liên tục cho đến nay. Cả xã đều là con cháu trong tộc của ngài.
    (Cụ Thủy tổ) sinh được hai trai, một gái. Trong hai người con trai: Trai trưởng chưa rõ tên, còn nghi vấn; Trai thứ là (Nhữ) Huyền Minh.
    Người con trai sau là (Nhữ) Huyền Minh dời cư đến phủ Thượng Hồng, nay đổi thành phủ Bình Giang, huyện Đường An, xã Lỗi Dương, thôn Đông. Dòng họ Nhữ bắt đầu tư đây (là dòng họ Nhữ làng Lỗi Dương, Hoạch Trạch và các nhánh trực thuộc).
    Người con gái được phong tặng Thái Phu nhân, hiệu Từ Thục, lấy chồng là ông họ Nguyễn, quê quán xã Trung Am, huyện Vĩnh Lại, húy Văn Định, hiệu Cù Xuyên, được tặng chức Thái Bảo, tước Nghiêm Quận công. (bà) sinh một con trai là Nguyễn Văn Đạt.
    Nguyễn Văn Đạt, tự là Bỉnh Khiêm, hiệu Bạch Vân Am cư sĩ, năm Đại Chính[3] thứ sáu (1535), triều vua Mạc (Đăng Doanh), đỗ khoa thi Ất Mùi, được sắc ban học vị Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, Đệ nhất danh (Trạng Nguyên). Giữ chức Đông các hiệu thư, Tả thị lang bộ Hình, (sau) chuyển sang Hữu thị lang bộ Lại, kiêm Đông các Đại học sĩ, được gia phong (tặng) tước Trình Quốc công.
    Phu nhân bản tính thông minh, thông thạo kinh điển, giỏi văn chương, đặc biệt tinh thông thuật xem tướng (phong giám), am hiểu các thuật số (bói toán, chiêm đoán).
    Vào thời Hồng Đức đang thịnh, bà đã biết rằng khoảng bốn mươi năm sau thì vận nhà Lê sẽ suy. Bà khảng khái nuôi chí của bậc trượng phu muốn xoay chuyển vận mệnh, nên kén chọn đối tượng, không chịu lấy chồng suốt mấy chục năm. Về sau, chỉ một lần gặp ông Văn Định, bà biết ông có tướng mệnh sinh con quý hiển, bèn theo mà lấy làm chồng.
    Sau này, gặp một chàng trai trẻ ở bến đò Hàn, sông Vân, bà ngạc nhiên than rằng: “Thuở còn trẻ sao không gặp nhau, hôm nay đến đây làm gì?” Người theo hầu quát mắng và quất roi anh ta. Phu nhân từ tốn hỏi tên họ, lúc ấy mới biết (chàng trai) là Mạc Đăng Dung. (vì cuộc gặp gỡ này) Bà buồn bã, day dứt suốt mấy ngày.
    Vào năm Hồng Đức thứ hai mươi mốt, năm Tân Hợi, sinh Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thân hình cao lớn, dung mạo anh tuấn, chưa đầy một tuổi đã biết nói. Một hôm lúc tờ mờ sáng, ông Văn Định bồng (bế) con bên mình, bỗng nhiên (cậu bé) cất tiếng nói rằng: “Mặt trời mọc ở phương Đông”. Ông Văn Định vô cùng kinh ngạc.
    Lên bốn tuổi, Phu nhân dạy cho (con) học các bản văn chính của kinh và truyện, liền có thể thuộc làu, thông thạo. Khi ấy Phu nhân có việc ra ngoài, Văn Định nhân đó kéo khúc tre, chơi trò (làm) cái đùm, vùa chơi vừa ngâm rằng: “Nguyệt liêu cung, nguyệt liêu cung”, vế dưới chưa nghĩ xong, Trình công liền ứng khẩu đọc: “Vén tay tiên, nhẫn nhẫn dông”.
    Khi Phu nhân trở về, ông Văn Định vui mừng đem khoe. Phu nhân giận nói: “Trăng là tượng của bề tôi, sao ông lại dùng chữ ấy mà đặt (làm mệnh đề) cho con!” Văn Định hổ thẹn tạ lỗi, nhưng Phu nhân uất hận mãi không nguôi, cuối cùng từ biệt ra đi, từ đó bà chuyên đi xem tướng trong thiên hạ, mãi chẳng được người vừa ý.
    Sau đến địa giới huyện Động Khê, thấy một người quê mùa đứng bên bờ ruộng, chăm chú nhìn hồi lâu, trong lòng rất đắc ý, cho rằng ắt sẽ sinh con quý, bèn kết làm vợ chồng. Đêm hợp cẩn, phu nhân chống gươm, xõa tóc, xem tinh độ (thiên văn). Đủ một năm, sinh Trạng nguyên[4] Phùng Quốc công, mới hai tuổi, còn trong địu đã biết ngâm thơ.
    Phu nhân than rằng: “Mưu sự ở người, thành sự ở trời”. Sau đó không rõ bà đi về đâu[5]. Nay phối thờ Phu nhân tại dãy tả vu của đền Đại Vương công.

[1] Các chữ trong ngoặc (...) là chú thêm của người dịch, không có trong tư liệu chữ Hán.
[2] Húy: Một số tài liệu Hán Nôm khác ghi Văn Lan là tên tự, húy là Thái.
[3] Đại Chính: Tộc phả ghi là “Đại Lịch”, đây là cách ghi của thời Lê Trung Hưng, vốn coi triều Mạc là “ngụy”, không dùng chũ “chính”.
[4] Trạng nguyên: theo chính sử, Phùng Khắc Khoan đỗ Hoàng giáp, ông được dân gian tôn là Trạng Bùng, Bùng là quê hương của ông.
[5] Bà có mộ trong khu Mả Nghè ở quê hương của bà, làng An Tử hạ, T.P Hải Phòng, khu mả gồm ba ngôi: mộ ông bà Tiến sĩ Nhữ Văn Lan và mộ bà, được công nhận là di tích lịch sử.

CHẾ BẢN CHỮ HÁN:

耯澤汝氏家譜 Hoạch Trạch Nhữ thị gia phả - Gia phả họ Nhữ Hoạch Trạch

思孝世錄集上 Tư hiếu thế lục, tập thượng Tư hiếu thế lục, Tập thượng

世次 Thế thứ - Thế thứ

始祖進士剛正博達大王.

諱汝文瀾,前黎光順, 聖宗年號四年, 葵未科, 敕賜第三甲同進士出身, 至仕戶部尚書, 加封剛正博達大王

原貫南策府,先明縣, 安子社人, 現為伊社福神歷朝封贈至今香火不絕, 擧社皆其族焉.

公生下二男一女

二男: 長男缺名疑; 次男是玄明公

次後男玄明公移居上洪府, 今改平江府, 唐安縣, 耒陽社, 東村   而汝氏世系肇于此矣

女封贈太夫人汝氏號慈淑嫁阮姓, 永賴縣,中庵社, 監生贈太保嚴郡公號瞿川先生諱 文定, 生下一男 阮文達

莫大正()六年, 敕賜乙未科第一甲進士及第第一名, 授東閣校書,刑部左侍郎, 遷吏部右侍郎,兼東閣大學士, 加封程國字秉謙號白雲庵居士, 今有白雲庵詩集行于世

夫人性聰明通經史善文章, 尤精風鑑曉術數

方洪德盛時, 而知四十年後黎運當微, 慨然有丈夫改運之志,擇對不嫁幾十年餘, 後一見文定, 知其有生貴兒相, 遂婦焉

後遇一年少過雲江寒渡頭 愕然嘆曰: “少時何不相遇, 今日到此奚為”; 從者 𠮟而鞭之, 夫人徐詢姓名, 始知為莫登庸, 懊悔者移日

洪德二十一年,辛亥,生程國公阮秉謙. 身長大,容貌英偉,未週歲能言。一日昧爽,文定公抱諸卷,忽語曰:日出東方. 文定公大驚異.

年四歲,夫人誨以經傳正文,卽能爛熟. 時夫人他出,文定公因拽竹藲,弄兜戲,吟云:月撩弓,月撩弓,下句未就, 程公即應云:援𢬣㧾㧾.

及夫人回,文定公喜以示夫人,夫人恚曰:月,臣象也,汝何以此命兒!文定大慚謝,然恨終不釋,竟辭歸,遍相天下,皆不如意.

後至洞溪縣界,見一野人立于田畔,凝注久之,心甚得,以為必生貴子,遂與成親. 合奩之夕,夫人常仗劍披髮以觀星度. 朞年,生狀元逢國公,纔二歲襁中能詠詩.

夫人嘆曰:謀事在人,成事在天. 後不知其所之何處. 今配祀夫人于大王公祠之左廡

PHIÊN ÂM:

          耯澤汝氏家譜 Hoạch Trạch Nhữ thị gia phả - Gia phả họ Nhữ Hoạch Trạch

          思孝世錄集上 Tư hiếu thế lục, tập thượng Tư hiếu thế lục, Tập thượng

          世次 Thế thứ - Thế thứ

          Thủy tổ Tiến sĩ, Cương chính Bác đạt Đại vương.

          Húy Nhữ Văn Lan, tiền Lê Quang Thuận, Thánh Tông niên hiệu tứ niên, Quý Mùi khoa, sắc tứ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Chí sĩ Hộ bộ Thượng thư, gia phong Cương chính Bác đạt Đại vương.

          Nguyên Nam Sách phủ, Tiên Minh huyện, An Tử xã nhân. Hiện vi y xã Phúc thần Lịch triều phong tặng, chí kim hương hỏa bất tuyệt, cử xã giai kỳ tộc yên.

          Công sinh hạ nhị nam nhất nữ.

          Nhị Nam: Trưởng nam khuyết danh nghi; Thứ nam thị Huyền Minh công.

          Thứ hậu nam Huyền Minh công di cư Thượng Hồng phủ, kim cải Bình Giang phủ, Đường An huyện, Lỗi Dương xã, Đông thôn. Nhi Nhữ thị thế hệ triệu ư thử hĩ.

          Nữ phong tặng Thái phu nhân Nhữ thị, hiệu Từ Thục, giá Nguyễn tính, Vĩnh Lại huyện, Trung Am xã, Giám sinh, tặng Thái bảo, Nghiêm Quận công, hiệu Cù Xuyên tiên sinh, húy Văn Định. Sinh hạ nhất nam, Nguyễn Văn Đạt.

          Mạc Đại Lịch (Chính) lục niên (1535), sắc tứ Ất Mùi khoa Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, Đệ nhất danh. Thụ Đông Các hiệu thư, Hình bộ Tả thị lang. Thiên Lại bộ Hữu thị lang, kiêm Đông Các Đại học sĩ. Gia phong Trình Quốc công, tự Bỉnh Khiêm, hiệu Bạch Vân Am cư sĩ. Kim hữu Bạch Vân Am thi tập hành ư thế.

          Phu nhân tính thông minh, thông kinh sử, thiện văn chương, vưu tinh phong giám, hiểu thuật số.

          Phương Hồng Đức thịnh thời nhi tri tứ thập niên hậu Lê vận đương vi. Khái nhiên hữu trượng phu cải vận chi chí, trạch đối bất giá, kỷ thập niên dư. Hậu nhất kiến Văn Định, tri kỳ hữu sinh quý nhi tướng, toại phụ yên.

          Hậu ngộ nhất niên thiếu, quá Vân Giang Hàn độ đầu, ngạc nhiên thán viết: Thiếu thời hà bất tương ngộ, kim nhật đáo thử hề vi”. Tòng giả sất nhi tiên chi. Phu nhân từ tuân tính danh, thủy tri vi Mạc Đăng Dung. Áo hối giả di nhật.

          Hồng Đức nhị thập nhất niên Tân Hợi sinh Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm, thân trường đại, dung mạo anh vĩ, vị chu tuế năng ngôn. Nhất nhật muội sảng, Văn Định công bão chư quyển, hốt ngữ viết: Nhật xuất Đông phương. Văn Định công đại kinh dị.

          Niên tứ tuế, Phu nhân hối dĩ kinh truyện chính văn, tức năng lạn thục. Thời Phu nhân tha xuất, Văn Định công nhân duệ trúc âu, lộng đâu hí, ngâm vân: Nguyệt liêu cung, nguyệt liêu cung, hạ cú vị tựu. Trình công tức ứng vân: “Vén tay tiên, nhẫn nhẫn dông”.

          Cập phu nhân hồi, Văn Định công hỷ dĩ thị Phu nhân, Phu nhân uất viết: “Nguyệt, thần tượng dã, Nhữ hà dĩ thử mệnh nhi!”. Văn Định đại tàm tạ, nhiên hận chung bất thích, cánh từ quy, biến tướng thiên hạ, giai bất như ý.

          Hậu chí Động Khê huyện giới, kiến nhất dã nhân lập ư điền bạn, ngưng chú cửu chi, tâm thậm đắc, dĩ vi tất sinh quý tử, toại dữ thành thân. Hợp liêm chi tịch,        Phu nhân thường trượng kiếm phi phát dĩ quan tinh độ. Ki niên, sinh Trạng nguyên Phùng Quốc công, tài nhị tuế, cưỡng trung năng vịnh thi.

          Phu nhân thán viết: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.” Hậu bất tri kỳ sở chi hà xứ. Kim phối tự phu nhân ư Đại Vương công từ chi tả vũ.

------------------

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn