翰林院東閣大學士阮炳撰
Hàn
lâm viện, Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn
徵女王朝
鬼王玉譜錄
TRƯNG NỮ VƯƠNG TRIỀU
QUỶ VƯƠNG NGỌC PHẢ LỤC
本土天官鬼王之神 Bản thổ Thiên Quan Quỷ vương chi thần
Thần tích được chép trong tư liệu di sản Hán Nôm có tên: “建安省 先郎縣 漢南總各社神蹟 Kiến An tỉnh, Tiên Lãng huyện, Hán Nam tổng, các xã thần tích” trang 1(a,b) đến 6(a,b), lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu lưu trữ AE A.12/18.
Thần tích do Hàn Lâm viện, Đông Các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc thứ nhất (1572), triều vua Lê Anh Tông (1532 – 1573). Bản di sản Hán Nôm thần tích được sao chép lại thời Nguyễn, khi đã thành lập tỉnh Kiến An.

建安省 先朗縣漢南總安子下社 神蹟
徵女王朝鬼王玉譜錄 國朝禮部正本
昔我粵肇基南服 牛斗分疆 自雄朝十八葉傳祚 二千六百二十二年 世世父傳子继 皆號称雄 玉帛車書 山河一綂 是為百粵之祖焉 傳至睿王 生下二女 立嫡無人 乃讓位于蜀安陽王 王有國纔五十年 乃有真定人 姓趙名陀 擧兵來侵 而蜀家亡矣 趙陀得國 父傳子继 五代為王 自此我粵屬於漢 至漢光武 乃以蘇定為我粵太 (tr.) 守
定為人貪殘暴虐 侵占中原 百姓殘傷 無人拯救
至此前雄王外姓 徵將軍之女 姓徵名側 與妹親名貳娘 都是世上聖神 女中堯舜大奮雄威 砍舉兵來戰 然當時男兒韜畧未有其人存蓄積兵粮 神鋒未動
信矣有是君必有是臣 龍興雲致理不誣矣 當是之時 在爱州紹天府梁江縣梁江鄉 有阮公家世陰行善 娶武寧部陶氏素為妻 琴瑟緣諧 薦鴦侶合 先己生子二人 背好符法 一日 阮公道與陶氏曰吾家 (tr.)世陰行善今觀諸兒皆非克閭令子 兹我砍一番祈禱 倘或哤燕致祥 席慰平生之願
因往天挺山陰禱是夕陶氏夢見赤光滿寺 成有黃龍婉蜒而來 依于身側 陶氏大驚 睲來乃知黃梁一夢耳乃鴛鴦同枕鵉鳳成群樂鐘鼓之歡聲興琴詩之好韻自此陶氏身懷有孕孕成十二月至辛丑年正月十二日生下一男神丰俊整 氣宇魁奇 高出尋常萬萬 周歲能言五歲曉音律 甚為父母珠愛之 乃命名曰恕公
日往月來及其十有五歲尋師 (tr.)往學 學得数年文章貫徹能穿孔孟之宫墙 武備才能不讓孫吴之韜畧凢上之天文下至地理 無一事而不知無一物而不曉每於坐閑談話 議論風生並肩朋友無不驚服 逮至二十歲 爺娘俱逝公以家計清淡而用無謀四壁風吹野無青草 常泣曰我父醫千人之病不能救一子之貧 古人有言曰良醫之子必死于命今我則困于貧之病矣時公有親舅為南策府尹官公因此行裝 渡河依于親舅名陶公厚蘇定陰使人誣告有歹状 (tr.)定捉公厚殺之
恕公自此思為舅報仇而力少敵 乃週遊府內一日公往至浮州安子下庄其安子之人民父老見公俊雅儒風乃固請公留居赦士 公立場於東邑居之人民一皆遣子入學公居於此三四年間多士成葉其文献之風倍於緊內自此 安子東區父老每夢見一人身服青衣手持黄旗 自称天使誦云
吾承敕旨報於民
公恕名兮最好人
令今在汝民民勿賤
後為血食汝民神
(tr.) 人民見此受疑其為公然問之於公則公終隱不称其名
至此人民亂生疾病犬吠竟夕枕不能安此夜人民又夢見兵士無数至於民中相往相言曰恕公乃是東區福神既居教士而民不知故我大兵往来而東區亂生疾病忽而醒系乃知夢中各大驚矣乃行禮出於公自謂見夢如此今人民訖為臣子願尊公恤及萬賴尊公之大德也公乃笑曰我果是名公恕為有蘇定之事我欷潜心報舅之仇故隐其名人民答曰王公如有是心臣民願従 (tr.)為手足言訖師弟飲酒甚歡而罷
次日公召人民釆囑各事公與数人週遊天下公聞山西道廣威府福祿縣有徵氏娣妺甚是時中豪傑起兵於喝門江口天下英雄多歸附之公師弟尋至往入謁見徵氏徵氏見其人堂堂相貌凛凛威儀即日乃封為軍中參贊許往諸天下招諭
公奉命返回安子東區祋檄各諸府縣豪傑同心報國伏義平殘倘撫定之後共享清平之福此時應募而出旬日間得数萬人同會於東區犒享與民人每族数人共得 (tr.) 三十餘人為家臣手足 兵士森嚴噐械精銳
擇日進兵與徵氏俱會 徵氏望見乃大喜 曰天為吾皇篤生賢佐 何夏乎事不成功之不就耶 乃立𡊨告祭天地百神 祝曰女乃一个女流 痛念生靈 茲有異國之人 名称蘇定 犬羊常態 虐政殘民 妾以前雄苗裔 豈可恬然 伏願天地百神陰扶妾等 克復舊物 祀夏配天 萬賴天地百神陰扶之大德也 祝畢 分道並進 大破竹走凡之勢 振搉枯拉朽之威直抵蘇城大戰一陣蘇軍大敗
於是徵女於嶺外築 (tr.) 六十五城盡復南邦境土徵女郎位自立為徵王封妹贰為平魁公主以下諸將等級有差乃封恕公為鬼王之神鉄鉞與國同休
自此霑濡聖澤漫渥皇恩香火盖有緣矣君臣洽德天下太平萬民娛給足之管絃四海仰泰和之景象
公報得舅之仇乃返回爱州梁江本貫行禮拜謁家先得月間又返回安于下東區義邑即日人民行禮拜賀暇日公閑觀地勢見有一局龍虎環抱山水有情乃傳人民詨立生祠以為百年後享神之有所
一日 (tr.) 公坐於宮所忽見黑雲一片如蒼狗之形犯入太陽星一皆黑暗公知其國有大变將備其行装入朝忽見使臣来召謂漢光武復遣劉隆馬授等將兵来侵公即回朝與王共行討賊
公奉命復將人民家臣兵士進朝擇日進至諒山诚與馬援瀏隆拒戰逾年勝負未分徵王退保禁溪為長久計馬援大追至圍之徵氏自度不得脫乃嘆曰
出師未捷身先沒
長使雄英淚滿襟
乃見天地晦冥風雨大作徵氏自死 於是公破潰圍而出不圖 (tr.)漢兵四面唤来 公於馬上往来衝突 斬得百餘頭漢兵大潰 公馳馬直出 奔走直至安子東區池頭 見老嫗賣水之人問曰軍無將存乎老嫗曰軍無將如虎無頭人己言矣何以存乎言訖即於馬上吼一聲云
一言封得英雄骨
萬古遺來恨漢長
乃投身于地而化時十月初十日公化之後其安子下束區追思立廟而祀之歷至士王為交州太守繞至徵氏舊营回想當時之氣義乃追封之 (tr.)
準許安子下庄東區奉之
奉開生化各席與諱字切禁
生神日 正月十二日 禮用 黑猪𥸷酒
化神日 十月初十日 禮用 上斋盘下黑猪𥸷酒
慶賀日 十一月十二日 禮用 牛牢唱歌三日
諱字 恕字切禁
洪德(福[1])元年孟春吉日
翰林院東閣大學士臣阮炳奉撰
Phiên âm:
Kiến An tỉnh, Tiên Lãng huyện, Hán Nam
tổng, An Tử Hạ xã Thần tích.
Trưng nữ vương triều Quỷ Vương ngọc phả
lục. Quốc triều Lễ bộ chính bản.
Tích ngã
Việt triệu cơ nam phục, Ngưu Đẩu phân cương. Tự Hùng triều thập bát diệp truyền
tộ, nhị thiên lục bách nhị thập nhị niên, thế thế phụ truyền tử kế, giai hiệu
xưng Hùng. Ngọc bạch xa thư[2],
sơn hà nhất thống. Thị vi Bách Việt chi tổ yên. Truyền chí Duệ Vương, sinh hạ
nhị nữ, lập đích vô nhân, nãi nhượng vị ư Thục An Dương Vương. Vương hữu quốc
tài ngũ thập niên, nãi hữu Chân Định nhân, tính Triệu danh Đà, cử binh lai xâm
nhi Thục gia vong hĩ. Triệu Đà đắc quốc, phụ truyền tử kế, ngũ đại vi vương. Tự
thử ngã Việt thuộc ư Hán, chí Hán Quang Vũ, nãi dĩ Tô Định vi ngã Việt Thái (tr.)
thú.
Định vi
nhân tham tàn bạo ngược, xâm chiếm Trung Nguyên, bách tính tàn thương, vô nhân
chửng cứu.
Chí thử tiền
Hùng Vương ngoại tính, Trưng tướng quân chi nữ, tính Trưng danh Trắc, dữ muội
thân danh Nhị Nương, đô thị thế thượng thánh thần, nữ trung Nghiêu Thuấn, đại phấn hùng uy, khảm cử binh lai
chiến. Nhiên đương thời nam nhi thao lược vị hữu kỳ nhân tồn súc tích binh
lương, thần phong vị động.
Tín hĩ hữu
thị quân tất hữu thị thần, long hưng vân trí lý bất vu hĩ. Đương thị chi thời,
tại Ái châu, Thiệu Thiên phủ, Lương Giang huyện, Lương Giang hương, hữu Nguyễn
công gia thế âm hành thiện, thú Vũ Ninh bộ Đào thị Tố vi thê, cầm sắt duyên
hài, tiến ương lữ hợp. Tiên kỷ sinh tử nhị nhân, bối hảo phù pháp. Nhất nhật,
Nguyễn công đạo dữ Đào thị viết: "Ngô gia (tr.) thế âm hành thiện, kim
quan chư nhi giai phi Khắc Lư lệnh tử[3].
Tư ngã khám nhất phiên kỳ đảo, thảng hoặc mang yến trí tường, tịch úy bình sinh
chi nguyện”.
Nhân vãng
Thiên Đĩnh sơn âm đảo, thị tịch Đào thị mộng kiến xích quang mãn tự, thành hữu
hoàng long uyển diên nhi lai, y ư thân trắc. Đào thị đại kinh, tỉnh lai nãi tri
hoàng lương nhất mộng nhĩ. Nãi uyên ương đồng chẩm, loan phụng thành quần, nhạc
chung cổ chi hoan thanh, hưng cầm thi chi hảo vận. Tự thử Đào thị thân hoài hữu
dụng, dụng thành thập nhị nguyệt, chí Tân Sửu niên chính nguyệt thập nhị nhật,
sanh hạ nhất nam, thần phong tuấn chỉnh, khí vũ khôi kỳ, cao xuất tầm thường vạn
vạn. Chu tuế năng ngôn, ngũ tuế hiểu âm luật, thậm vi phụ mẫu châu ái chi, nãi
mệnh danh viết Thứ công.
Nhật vãng
nguyệt lai, cập kỳ thập hữu ngũ tuế, tầm sư (tr.) vãng học. Học đắc sổ niên,
văn chương quán triệt, năng xuyên Khổng Mạnh chi cung tường. Vũ bị tài năng bất
nhượng Tôn Ngô chi thao lược. Phàm thượng chi thiên văn, hạ chí địa lý, vô nhất
sự nhi bất tri, vô nhất vật nhi bất hiểu. Mỗi ư tọa nhàn đàm thoại, nghị luận
phong sinh; tịnh kiên bằng hữu vô bất kinh phục. Đãi chí nhị thập tuế, gia
nương câu thệ. Công dĩ gia kế thanh đạm nhi dụng vô mưu, tứ bích phong xuy, dã
vô thanh thảo. Thường khấp viết: "Ngã phụ y thiên nhân chi bệnh, bất năng
cứu nhất tử chi bần”. Cổ nhân hữu ngôn viết: “Lương y chi tử tất tử ư mệnh” kim
ngã tắc khốn ư bần chi bệnh hĩ!". Thời công hữu thân cữu vi Nam Sách phủ
doãn quan. Công nhân thử hành trang, độ hà y ư thân cữu danh Đào Công Hậu. Tô Định
âm sử nhân vu cáo hữu đãi (tr.) trạng. Định tróc Công Hậu sát chi.
Thứ công tự
thử tư vi cữu báo cừu nhi lực thiểu địch, nãi chu du phủ nội. Nhất nhật, công
vãng chí Phù châu An Tử Hạ trang, kỳ An Tử chi nhân dân phụ lão kiến Công tuấn
nhã nho phong, nãi cố thỉnh Công lưu cư xá sĩ. Công lập trường ư Đông ấp, cư
chi nhân dân nhất giai khiển tử nhập học. Công cư ư thử tam tứ niên gian, đa sĩ
thành diệp, kỳ văn hiến chi phong bội ư cận nội. Tự thử, An Tử đông khu phụ
lão, mỗi mộng kiến nhất nhân thân phục thanh y, thủ trì hoàng kỳ, tự xưng thiên
sứ tụng vân:
Ngô thừa sắc chỉ báo ư dân,
Công Thứ danh hề tối hảo nhân.
Nay tại nhữ dân, dân vật tiện,
Hậu vi huyết thực, nhữ dân thần.
(tr.) Nhân dân kiến thử thụ nghi kỳ vi Công, nhiên vấn chi ư Công, tắc công chung
ẩn bất xưng kỳ danh.
Chí thử
nhân dân loạn, sinh tật bệnh, khuyển phệ cánh tịch, chẩm bất năng an. Thử dạ,
nhân dân hựu mộng kiến binh sĩ vô số, chí ư dân trung tương vãng tương ngôn viết:
“Thứ công nãi thị Đông khu phúc thần, ký cư giáo sĩ nhi dân bất tri, cố ngã đại
binh vãng lai nhi Đông khu loạn sinh tật bệnh”. Hốt nhi tỉnh hệ, nãi tri mộng
trung các đại kinh hĩ. Nãi hành lễ xuất ư Công, tự vị kiến mộng như thử, kim
nhân dân cật vi thần tử nguyện tôn công, tuất cập vạn lại, tôn công chi đại đức
dã. Công nãi tiếu viết: “Ngã quả thị danh Công Thứ, vi hữu Tô Định chi sự, ngã
hy tiềm tâm báo cữu chi cừu, cố ẩn kỳ danh”. Nhân dân đáp viết: “Vương công như
hữu thị tâm, thần dân nguyện tòng (tr.) vi thủ túc”. Ngôn cật, sư đệ ẩm tửu thậm
hoan nhi bãi.
Thứ nhật, Công
triệu nhân dân biện chúc các sự. Công dữ sổ nhân chu du thiên hạ, công văn Sơn
Tây đạo, Quảng Uy phủ, Phúc Lộc huyện, hữu Trưng thị đễ muội, thậm thị thời
trung hào kiệt. Khởi binh ư Hát Môn Giang khẩu. Thiên hạ anh hùng đa quy phụ
chi. Công sư đệ tầm chí vãng nhập yết kiến Trưng thị, Trưng thị kiến kỳ nhân đường
đường tướng mạo, lẫm lẫm uy nghi, tức nhật nãi phong vi quân trung tham
tán, hứa vãng chư thiên hạ chiêu dụ.
Công phụng
mệnh phản hồi An Tử Đông khu, đoái hịch các chư phủ huyện hào kiệt đồng tâm báo
quốc, phục nghĩa bình tàn. Thảng phủ định chi hậu, cộng hưởng thanh bình chi
phúc. Thử thời ứng mộ nhi xuất, tuần nhật gian đắc sổ vạn nhân, đồng hội ư Đông
khu, khao hưởng dữ nhân dân mỗi tộc sổ nhân, cộng đắc (tr.) tam thập dư nhân vi
gia thần thủ túc, binh sĩ sâm nghiêm, khí giới tinh nhuệ.
Trạch nhật
tiến binh, dữ Trưng thị câu hội. Trưng thị vọng kiến nãi đại hỉ, viết: “Thiên
vi ngô hoàng đốc sinh hiền tá, hà hạ hồ sự bất thành chi bất tựu da”. Nãi lập
đàn cáo tế thiên địa bách thần, chúc viết: “Nữ nãi nhất cá nữ lưu, thống niệm
sinh linh. Tư hữu dị quốc chi nhân, danh xưng Tô Định, khuyển dương thường
thái, ngược chính tàn dân. Thiếp dĩ tiền Hùng miêu duệ, khởi khả điềm nhiên. Phục
nguyện thiên địa bách thần âm phù thiếp đẳng, khắc phục cựu vật, tự Hạ phối
thiên, vạn lại thiên địa bách thần âm phù chi đại đức dã”. Chúc tất, phân đạo tịnh tiến, đại phá trúc tẩu phàm chi thế, chấn xác khô lạp
hủ chi uy. Trực để Tô thành, đại chiến nhất trận, Tô quân đại bại.
Ư thị
Trưng nữ ư Lĩnh ngoại trúc lục thập ngũ thành, tận phục Nam bang cảnh thổ.
Trưng nữ lang vị tự lập vi Trưng Vương, phong muội Nhị vi Bình Khôi công chúa.
Dĩ hạ chư tướng đẳng cấp hữu sai. Nãi phong Thứ công vi Quỷ vương chi thần, Thiết
Việt dữ quốc đồng hưu.
Tự thử
Triêm nhu Thánh trạch, mạn ốc hoàng ân[4],
hương hỏa cái hữu duyên hĩ. Quân thần hiệp đức, thiên hạ thái bình, vạn dân ngu
cấp túc chi quản huyền, tứ hải ngưỡng thái hòa chi cảnh tượng.
Công báo đắc
cữu chi cừu, nãi phản hồi Ái Châu, Lương Giang bản quán, hành lễ bái yết gia
tiên. Đắc nguyệt gian hựu phản hồi An Tử Hạ, Đông khu, Nghĩa ấp. Tức nhật nhân
dân hành lễ bái hạ. Hạ nhật Công nhàn quan địa thế, kiến hữu nhất cục long hổ
hoàn bão, sơn thủy hữu tình, nãi truyền nhân dân khiếu lập sinh từ, dĩ vi bách
niên hậu hưởng thần chi hữu sở.
Nhất nhật
(tr.) Công tọa ư cung sở, hốt kiến hắc vân nhất phiến như thương cẩu chi hình,
phạm nhập thái dương tinh, nhất giai hắc ám. Công tri kỳ quốc hữu đại biến,
tương bị kỳ hành trang nhập triều. Hốt kiến sứ thần lai triệu, vị Hán Quang Vũ
phục khiển Lưu Long, Mã Viện đẳng tướng binh lai xâm. Công tức hồi triều dữ
vương cộng hành thảo tặc.
Công phụng
mệnh phục tương nhân dân gia thần binh sĩ tiến triều, trạch nhật tiến chí Lạng
Sơn thành, dữ Mã Viện, Lưu Long cự chiến. Du niên thắng phụ vị phân. Trưng
Vương thoái bảo Cấm Khê vi trường cửu kế. Mã Viện đại truy chí vi chi. Trưng thị
tự độc bất đắc thoát, nãi thán viết:
“Xuất sư vị
tiệp, thân tiên một,
Trường sử
hùng anh lệ mãn khâm[5]”.
Nãi kiến
thiên địa hối minh, phong vũ đại tác. Trưng thị tự tử. Ư thị công phá hội vi
nhi xuất, bất đồ (tr.) Hán binh tứ diện hoán lai, Công ư mã thượng vãng lai
xung đột, trảm đắc bách dư thủ, Hán binh đại hội. Công trì mã trực xuất, bôn tẩu
trực chí An Tử Đông khu trì đầu, kiến lão ụ mại thủy chi nhân, vấn viết: “Quân
vô tướng tồn hồ?” Lão ẩu viết: “Quân vô tướng, như hổ vô đầu, nhân kỷ ngôn hĩ,
hà dĩ tồn hồ?” Ngôn cật, tức ư mã thượng hống nhất thanh, vân:
“Nhất ngôn
phong đắc anh hùng cốt,
Vạn cổ di
lai hận Hán trường!”
Nãi đầu
thân ư địa nhi hóa. Thời thập nguyệt sơ thập nhật, Công hóa chi hậu, kỳ An Tử Hạ
Thúc khu truy tư lập miếu nhi tự chi. Lịch chí Sĩ Vương vi Giao Châu Thái Thú,
nhiễu chí Trưng thị cựu doanh, hồi tưởng đương thời chi khí nghĩa, nãi truy
phong chi:
“Nhất
phong bản thổ Thiên Quan Quỷ Vương chi thần.” (tr.)
Chuẩn hứa
An Tử Hạ trang, Đông khu phụng chi.
Phụng khai
sinh hóa các tịch dữ húy tự thiết cấm.
Sinh
Thần nhật: chính nguyệt thập
nhị nhật. Lễ dụng: hắc trư xôi tửu.
Hóa
thần nhật: thập nguyệt sơ
thập nhật. Lễ dụng: thượng trai (chay) bàn, hạ hắc trư xôi tửu.
Khánh
hạ nhật: thập nhất nguyệt
thập nhị nhật. Lễ dụng: ngưu lao xướng ca tam nhật.
Húy
tự: “Thứ” tự thiết
cấm.
Hồng Đức
(Phúc) nguyên niên Mạnh Xuân cát nhật.
Hàn Lâm viện
Đông các Đại học sĩ thần Nguyễn Bính phụng soạn
Dịch nghĩa:
Thần
tích xã An Tử Hạ, tổng Hán Nam, huyện Tiên Lãng, tỉnh Kiến An.
Ngọc
phả thần Quỷ Vương, triều Trưng Nữ Vương. Bản chính thức của Quốc triều Lễ bộ.
Xưa,
nước Việt ta dựng nền ở phương Nam, phân chia cương giới theo sao Ngưu, sao Đẩu.
Từ triều Hùng lập quốc truyền nối 18 đời, kéo dài hai nghìn sáu trăm hai mươi
hai năm (2.622 năm). Đời đời cha truyền con nối, đều xưng hiệu là Hùng Vương. Nền
văn hóa lễ nhạc quy củ, văn tự rõ ràng, quốc gia ổn định và thống nhất, đó
chính là tổ tiên của Bách Việt vậy. Truyền đến đời vua Duệ Vương, sinh được hai
con gái, không có người kế vị chính thống, nên nhường ngôi cho Thục An Dương
Vương. Vua Thục trị nước chỉ được năm mươi năm (50 năm) thì có người Chân Định
họ Triệu tên Đà cử binh xâm lược, nhà Thục diệt vong. Triệu Đà chiếm được nước,
cha truyền con nối năm đời làm vương, từ đó nước Việt ta thuộc về nhà Hán. Đến
thời Hán Quang Vũ, thì lấy Tô Định làm thái thú nước Việt ta.
Tô Định
là kẻ tham tàn bạo ngược, xâm chiếm Trung Nguyên khiến trăm họ bị tàn sát mà
không ai cứu giúp.
Đến
lúc này, có con gái của vị tướng họ Trưng thuộc dòng dõi ngoại tộc Hùng Vương
xưa, tên là Trưng Trắc, cùng em gái là Nhị Nương đều là những bậc thánh nhân
giáng thế, như Nghiêu Thuấn trong hàng nữ lưu, đã phất lên khí thế hùng cường, dấy binh khởi
nghĩa. Thế nhưng lúc bấy giờ, bậc nam nhi mưu lược chưa có ai đủ tài, binh
lương chưa đủ dự trữ, khí thế thần uy chưa dấy lên.
Quả
đúng “có vua ắt có tôi hiền”, rồng khởi mây tụ đạo lý ấy chẳng sai. Khi ấy, tại
làng Lương Giang, huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên, châu Ái, có ông Nguyễn
công, gia thế nhiều đời âm thầm làm việc thiện, lấy bà Đào Thị Tố ở bộ Vũ Ninh
làm vợ, hợp duyên hòa thuận, đôi lứa như uyên ương. Trước đã sinh được hai con,
đều giỏi phép phù chú[6].
Một hôm, Nguyễn công nói với Đào thị rằng:“Nhà ta bao đời âm thầm làm việc thiện,
nay xem ra các con chưa có ai đủ tài đức, biết gánh vách gia nghiệp. Nay ta một phen thành tâm dâng lời
cầu khẩn, mong rằng điềm lành xuất hiện, để thỏa nguyện ước cả đời”.
Bèn
đến sườn khuất của núi Thiên Đĩnh để cầu nguyện, tế lễ. Đêm ấy, bà Đào nằm mộng
thấy ánh sáng đỏ tràn ngập chùa, rồi có một con rồng vàng uốn lượn tiến lại,
nương tựa bên mình. Bà Đào hoảng sợ, tỉnh dậy mới biết chỉ là một giấc mộng
hoàng lương[7].
Rồi đôi uyên ương chung gối, cặp loan phượng sum vầy, vui trong tiếng chuông trống
rộn ràng, khơi dậy vần thơ đàn ca du dương, tươi đẹp. Từ đó, Bà Đào mang thai,
thai đủ mười hai tháng, đến ngày mười hai tháng Giêng năm Tân Sửu thì sinh một
con trai. Đứa trẻ thần thái tuấn tú, khí chất phi phàm, vượt xa kẻ tầm thường gấp
vạn lần. Vừa tròn một tuổi đã biết nói, năm tuổi thông hiểu âm luật, cha mẹ hết
mực yêu quý như châu ngọc, đặt tên là Thứ công.
Thời
gian thấm thoắt, đến năm mười lăm tuổi, tìm thầy học đạo. Học được vài năm, văn
chương thông suốt, có thể thấu hiểu tường tận đạo lý của Khổng Tử, Mạnh Tử. Tài
năng quân sự không thua kém binh pháp của Tôn Tử, Ngô Khởi. Trên thông thiên
văn, dưới rành địa lý, không việc gì không biết, không vật gì không hiểu thấu.
Mỗi khi ngồi nhàn rỗi ngồi đàm luận, lời bàn luận sắc sảo, bạn bè ngồi bên đều
kinh ngạc, khâm phục. Đến năm hai mươi tuổi, cha mẹ đều qua đời. Ngài (Thứ
công) sống trong cảnh nhà thanh bần, không kế sinh nhai, bốn vách gió lùa, đồng
nội không cọng cỏ xanh. Thường khóc mà rằng: "Cha ta chữa bệnh cho nghìn
người, nhưng không cứu nổi con mình khỏi cảnh nghèo. Người xưa có câu: Con nhà
lương y ắt chết vì mệnh, còn ta đang khốn vì bệnh nghèo đây”. Khi ấy, Ngài có
người cậu ruột làm quan chức phủ doãn Nam Sách, vì thế thu xếp hành trang vượt
sông, nương nhờ cậu. Cậu tên là Đào Công Hậu, nhưng bị Tô Định bí mật sai người
vu cáo có tội ác. Tô Định bắt Công Hậu rồi giết đi.
Ngài
(Thứ công) từ đó nung nấu ý định báo thù cho cậu, nhưng lực lượng ít không địch
nổi, bèn đi chu du khắp phủ. Một hôm, Ngài đặt chân đến trang An Tử Hạ, thuộc
châu Phù, dân chúng và các bậc bô lão nơi đây thấy Ngài phong thái nho nhã, tuấn
tú, liền khẩn khoản mời ở lại làm thầy dạy. Ngài lập trường học ở ấp Đông và cư
trú ở đó. Dân chúng đều cho con em theo học. Ngài ở đó khoảng ba bốn năm, nhiều
kẻ sĩ nên nghiệp, phong thái văn hiến phát triển gấp bội (so với các nơi khác)
trong quận. Từ đó, các bậc bô lão ở ấp Đông, An Tử Hạ thường mơ thấy một người
mặc áo xanh, tay cầm cờ vàng, tự xưng là sứ giả nhà trời, đọc rằng:
Ta
vâng lệnh trời, vì dân mà cống hiến, báo đáp,
Danh
tiếng Thứ Công là bậc chí nhân.
Nay
đang ở giữa dân các ngươi chớ xem thường.
Sau
này hy sinh máu xương, sẽ thành vị thần bảo hộ cho dân!
Nhân
dân thấy sự việc như vậy thì sinh lòng nghi ngờ, bèn đến hỏi thẳng Ngài, nhưng
Ngài vẫn giấu không chịu xưng tên thật.
Đến
lúc này, dân tình rối loạn, bệnh tật phát sinh, chó sủa suốt đêm, ngủ không yên
giấc. Đêm hôm đó, dân lại mộng thấy vô số binh lính đi vào trong dân, cùng nhau
nói rằng: “Thứ công chính là Phúc thần của khu Đông, vốn ở đây dạy dỗ (giáo sĩ)
mà dân không hay biết, nên đại quân ta qua lại khiến khu Đông sinh loạn và bệnh
tật.” Bỗng tỉnh dậy, mới biết là mộng, ai nấy đều kinh ngạc. Bèn đến trước mặt
Ngài hành lễ, kể lại giấc mộng, xin được phụng sự Ngài như thần minh, mong Ngài
thương xót và cứu giúp muôn dân, vì kính trọng đại đức của Ngài. Ngài mỉm cười
nói: “Ta quả thật là người mang tên Thứ công. Do có việc liên quan đến Tô Định,
ta đau đớn, lặng lẽ nuôi chí báo thù cho cậu nên mới giấu danh tính.” Dân chúng
đáp: “Nếu Vương công đã có tấm lòng ấy, thì dân chúng tôi nguyện đi theo làm
tay chân.” Nói xong, thầy trò cùng uống rượu rất vui rồi giải tán.
Ngày
hôm sau, Ngài triệu tập dân chúng để bàn bạc, dặn dò các việc. Ngài cùng vài
người đi khắp thiên hạ. Nghe nói tại đạo Sơn Tây, phủ Quảng Uy, huyện Phúc Lộc
có hai chị em họ Trưng, đương thời là bậc hào kiệt. Đã khởi binh ở cửa sông Hát
Môn, các anh hùng khắp thiên hạ đều theo về. Thầy trò Ngài liền tìm đến, vào yết
kiến bà Trưng. Bà Trưng thấy là người tướng mạo đường đường, phong thái uy nghi
lẫm liệt, ngay hôm đó liền phong Ngài làm tham tán trung quân, cho phép đi khắp
nơi trong thiên hạ để chiêu dụ người.
Ngài
vâng mệnh trở về khu Đông, An Tử, ban hịch đến các phủ huyện, kêu gọi hào kiệt
đồng tâm báo quốc, phục nghĩa bình tàn[8].
Nếu sau khi bình định được, thì cùng hưởng phúc thanh bình. Lúc bấy giờ người
hưởng ứng rất đông, chỉ trong mười ngày đã tập hợp được mấy vạn người, cùng tụ
họp tại khu Đông. Tiến hành mở tiệc khao thưởng cùng dân chúng, mỗi tộc được chọn
vài người, tổng cộng được hơn ba mươi người làm gia thần thân tín, binh lính
nghiêm chỉnh, khí giới tinh nhuệ.
Chọn
ngày tiến quân, cùng hội hợp với hai bà Trưng. Bà Trưng trông thấy thì vô cùng
mừng rỡ, nói rằng: “Trời vì vua ta mà sinh ra bề tôi hiền tài, sao lại để việc
không thành mà không theo đuổi đến cùng?” Bèn lập đàn cáo tế trời đất và trăm
thần, cầu khấn rằng:“Thiếp là phận nữ nhi, luôn đau đáu nghĩ đến sinh linh. Nay
có kẻ đến từ dị quốc, tên gọi là Tô Định, mang dã tâm cầm thú (bản tính chó
dê), ngược chính đạo, tàn bạo với dân lành. Thiếp vốn là dòng dõi vua Hùng thủa
trước, há có thể thản nhiên sao? Kính nguyện trời đất và trăm thần âm thầm phù
trợ thiếp cùng các người, khôi phục cơ đồ cũ, tế nhà Hạ[9],
phối thờ Trời. Muôn lần cảm tạ công đức lớn của trời đất và chư thần đã phù
giúp!” Khấn xong, chia ra nhiều hướng đồng loạt tiến công, đại phá như chẻ tre,
giặc chạy toán loạn, thế mạnh tựa hồ bẻ cây khô, nhổ cây mục. Thẳng tiến tới
thành Tô Định, giao chiến một trận lớn, quân Tô đại bại.
Nhân
đó, Trưng nữ thu phục sáu mươi lăm thành ở ngoại Lĩnh (Nam), khôi phục hoàn
toàn lãnh thổ phương Nam. Trưng nữ tự lập làm Trưng Vương, phong em gái Trưng
Nhị làm Bình Khôi Công chúa. Các tướng dưới quyền đều được phong tước có thứ bậc
khác nhau. Bèn phong Thứ công là Quỷ Vương chi thần, Ban vũ khí rìu sắt lớn (biểu
tượng uy quyền), cùng hưởng phúc lâu dài với đất nước.
Từ
đó được: thấm nhuần ơn trạch của thánh thượng, chan chứa ân đức của vua Bà,
phúc hương hỏa ắt có duyên trời định! Vua tôi hòa thuận đức độ, thiên hạ thái
bình, muôn dân vui vẻ, no đủ, đầy ắp lời ca, tiếng nhạc, bốn biển đều ngưỡng mộ
cảnh tượng thái hòa.
Ngài
đã báo được thù cho cậu, bèn trở về bản quán ở Lương Giang, châu Ái, làm lễ bái
yết tổ tiên. Ở đó độ một tháng, rồi lại trở về ấp Nghĩa, khu Đông, An Tử Hạ.
Ngay hôm đó, dân chúng làm lễ bái hạ. Khi rảnh rỗi, Ngài đi xem địa thế, thấy
có một thế đất long hổ bao bọc, non nước hữu tình, bèn bảo dân lập sinh từ, để
sau này trăm năm có nơi thờ phụng.
Một
hôm, đang ở trong dinh, Ngài bỗng thấy một đám mây đen hiện lên như hình con
chó xám, che kín mặt trời, khiến tất cả chìm trong bóng tối. Ngài biết đất nước
sắp có biến lớn, liền chuẩn bị hành trang vào triều, thì bỗng thấy sứ giả đến
triệu, nói rằng Hán Quang Vũ lại sai Lưu Long, Mã Viện đem quân sang xâm lược,
Ngài cần lập tức trở về triều cùng vua khởi binh đánh giặc.
Vâng
mệnh, Ngài lại tập hợp nhân dân, gia thần và binh lính tiến về triều, chọn ngày
tiến quân đến thành Lạng Sơn, quyết chiến với Mã Viện và Lưu Long. Hơn một năm
trời, hai bên giằng co chưa phân thắng bại. Trưng Vương rút về giữ Cấm Khê để
tính kế lâu dài. Mã Viện đuổi theo gấp, vây kín nơi ấy. Bà Trưng biết mình
không thể thoát được, bèn than rằng:
“Ra quân chưa thắng, thân đã thác,
Khiến bậc anh hùng lệ chứa chan[10].”
Bỗng
trời đất tối sầm, gió mưa nổi lên dữ dội. Bà Trưng tự vẫn. Ngài thương xót, phá
vòng vây mà thoát. Không ngờ quân Hán từ bốn phía kéo đến. Ngài trên lưng ngựa
xông pha qua lại, chém được hơn trăm đầu giặc, khiến quân Hán thảm bại, vỡ trận.
Ngài phi ngựa thẳng ra, chạy một mạch tới An Tử, khu Đông, đến chỗ đầu ao nước,
thấy một bà lão đang bán nước, bèn hỏi: “Quân không có tướng thì giữ được
chăng?” Bà lão đáp:“Quân không có tướng, như hổ không đầu. Người đã tự nói ra rồi,
còn trông cậy vào đâu nữa?” Nói xong, ông liền gầm lên một tiếng trên lưng ngựa,
nói:
“Một lời nói đổ xương anh kiệt,
Muôn năm mắt lệ hận Hán thù!”
Rồi
Ngài gieo mình xuống đất mà hóa. Khi ấy là ngày mồng mười tháng mười. Sau khi
Ngài hóa, dân ở vùng An Tử Hạ, khu Đông thương tiếc, lập miếu thờ. Trải đến thời
Sĩ Vương (Sĩ Nhiếp) làm Thái thú Giao Châu, khi đi qua dinh cũ của Bà Trưng, nhớ
lại khí tiết và nghĩa khí thuở xưa, bèn truy phong Ngài là:
“Nhất
phong Bản thổ Thiên Quan Quỷ Vương chi thần.”
Chuẩn
cho phép trang An Tử Hạ, khu Đông được thờ phụng.
Khi
cử hành nghi lễ sinh thần, hóa thần, tại các bàn lễ, tên húy của Thần tuyệt đối
cấm dùng.
Ngày
sinh của Thần: là ngày 12 tháng Giêng. Lễ dùng: (cỗ mặn có) thịt lợn đen[11],
xôi, rượu.
Ngày
hóa của Thần: là ngày 10 tháng 10. Lễ dùng: trên mâm cỗ chay, dưới (cỗ mặn có) thịt lợn đen, xôi, rượu.
Ngày
Khánh hạ là ngày 12
tháng 11. Lễ dùng: trâu tế, ca hát trong 3 ngày.
Tên
húy: cấm tuyết đối
dùng chữ "Thứ”.
Ngày
tốt, tháng Giêng, năm Hồng Phúc thứ nhất (1572).
Hàn Lâm viện, Đông Các Đại học sĩ, bề tôi là Nguyễn Bính phụng soạn.
Nhữ Đình Văn
Dịch và biên khảo
[1] 洪福 Hồng Phúc: Niên hiệu Hồng Phúc (1572-1573) triều Lê Anh Tông. Bản thần
tích chữ Hán này do Hàn Lâm viện, Đông Các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm “Hồng
Phúc nguyên niên” (1572), sao chép lại thời Nguyễn, khi đã thành lập tỉnh Kiến
An. Chi tiết: “Hồng Đức 洪德 nguyên niên
(1470)” là sao chép nhầm.
[2] 玉帛車書 Ngọc bạch xa
thư: là thành ngữ cổ, mang ý nghĩa tượng trưng cho nền văn minh, lễ nghi. 玉 ngọc: biểu tượng cho lễ nghi hoặc vật phẩm cống nạp quý
giá; 帛 bạch: lụa, tượng trưng cho cống phẩm, lễ vật;
車 xa: xe, biểu tượng cho giao thông, cơ cấu hành chính, đã có lưu thông bằng
xe ngựa; 書 thư: chữ viết, văn thư, biểu tượng cho nền
văn minh đã có chữ viết, văn hóa và giáo hóa.
[3] Khắc Lư lệnh tử克閭令子: tích trong Lễ ký (Nho gia) về một người tên Khảo Khắc Lư. “Khắc Lư lệnh
tử” sau được dùng để chỉ người con trai tài đức, biết gánh vác gia nghiệp.
[4] Triêm nhu Thánh
trạch, mạn ốc hoàng ân: dịch văn biền ngẫu: “Ân vua thấm khắp như mưa móc,
Nghĩa chúa tràn đầy tựa suối nguồn”, hay “Ân vua thấm khắp, Nghĩa chúa
tràn trề”.
[5] Chữ Hán: “Xuất sư vị tiệp, thân tiên một, Trường sử
hùng anh lệ mãn khâm.” Dịch nghĩa: “Đem quân chưa kịp thắng trận mà thân đã chết,
Mãi khiến cho các bậc anh hùng lệ rơi thấm đầy áo.”
[6] 符法 Phù pháp: gắn với đạo sĩ, pháp sư dùng bùa chú
để trừ tà, chữa bệnh, hộ mệnh...
[7] Giấc mộng hoàng lương: giấc mộng kê vàng, nói về giấc mơ
thoáng qua, phù du..., theo tích: một người thi không đỗ, vào quán cơm, mượn
cái gối ngủ một giấc, mơ thấy mình đỗ tiến sĩ, làm quan vẻ vang 20 năm. Tỉnh
dậy thì nồi cháo kê của chủ quán vẫn chưa chín!
[8] Phục nghĩa bình tàn: Khôi phục chính nghĩa, đạo lý, lẽ
phải; Bình định, dẹp yên thế lực tàn ác.
[9] “Tế nhà Hạ, phối thờ Trời”,
nguyên văn chữ Hán là “Tế Hạ phối Thiên 祀夏配天”: Theo tư
tưởng Nho giáo, lấy việc tế lễ, thờ Hạ Vũ (vua khai tổ nhà Hạ) là nối mạch
chính thống từ Thiên mệnh, coi vua như người được Trời giao phó cái trị.
[10] “Ra quân... lệ chứa chan” là dịch thơ, dịch nghĩa xem chú thích 1.
[11] Lợn đen: chữ Hán là “hắc trư”, chỉ lợn (heo) có lông mầu đen.
